LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Giuse Võ Tá Hoàng
Dẫn nhập
I. Khái quát lịch sử
Theo viện
ngôn ngữ học việt nam, lịch sử là:
+ Quá trình
phát sinh, phát triển đã qua hay cho đến tiêu
vong của một hiện tượng, một sự vật nào đó.
+ Khoa nghiên
cứu về quá trình phát triển của xã hội của loài người nói chung hay của một
quốc gia, một dân tộc nói riêng.
Một cách đơn
giản chúng ta hiểu lịch sử là câu chuyện về những gì con người đã nói và đã làm
trong thời gian qua.
Dù đơn giản
nhất nó cũng đòi ba nền tảng này.
- Liên quan đến con người
Dù là một
vài cá nhân, dù là tập thể to lớn như một vài dân tộc, hoặc toàn nhân loại, nếu
không liên quan đến con người thì không có lịch sử. Nếu liên quan đến con
người, nhưng thuộc phạm vi tư tưởng tu đức, thì lại là đối tượng của thần học
và triết học.
Sử học nói
tới kinh tế, chính trị, tâm lý của con người thời đó chứ không dạy chính trị,
kinh tế.
Con người
hành động trong quá khứ mới là đối
tượng của lịch sử.
2. Quá khứ thời gian của lịch sử
Nhiều người
tô vẽ hiện tại, trong đó mình nắm ưu thế, tưởng rằng mình làm được những trang
sử y như thế. Ai cũng có thể làm được những yếu tố tư liệu lịch sử, nhưng hậu
thế sẽ sàng lọc, sẽ minh định, sẽ thẩm định yếu tố đó, cái còn lại sau cùng là
lịch sử.
3. Thời gian, không gian trong lịch sử
Thời gian
không những định vị cho ngày giờ, năm tháng để chúng ta tính hôm qua với hôm
nay. Trong lịch sử, thời gian còn là thành tố của dữ kiện.
Không thể
hiểu đúng được lịch sử nếu tách một dữ kiện ra khỏi bối cảnh trực tiếp của nó.
Cũng thế, không thể hiểu lịch sử Giáo Hội, lịch sử của ơn cứu độ nếu không đặt
vào bối cảnh lịch sử toàn cầu và môi trường sống của những người đương thời. Và
hơn thế nữa, nó được đặt vào trong chương trình mầu nhiệm do Thiên Chúa khởi
xướng[1].
II. Lịch sử cứu độ trong chương trình của Thiên Chúa
Lịch sử cứu
độ mang một ý nghĩa khác, siêu nhiên hơn, trỗi vượt hơn rất nhiều so với lịch
sử thông thường. Lịch sử cứu độ được khởi xướng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là
tác nhân chính, thời gian và con người là những dữ kiện làm nên lịch sử, đó còn
gọi là lịch sử thánh.
Mầu nhiệm
cứu độ xét trong toàn bộ là một hồng ân hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa.
Hiến chế
Lumen Gentium đã mô tả điều đó như sau:
“Bởi ý định khôn ngoan và nhân lành, hoàn toàn tự do
và huyền nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Người đã quyết định nâng
loài người lên tham dự đời sống thần linh và Người đã không từ bỏ con người sa
ngã trong A-đam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi nhờ Đức Kitô,
Đấng Cứu Thế, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, con đầu lòng của mọi tạo vật”[2].
Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô VI trong thông điệp Ecclesiam suam đã trình bày ơn cứu độ
như một cuộc đối thoại tình yêu, do lòng tốt của Thiên Chúa khai mào: cuộc đối
thoại thân thiện, với tình phụ tử lâu dài và đa dạng này bắt đầu bằng hành động
sáng tạo của Thiên Chúa và chỉ chấm dứt vào ngày thế mạt.
Thiên Chúa
dùng phương pháp đối thoại để con người hiểu được Thiên Chúa và hiểu được chính
mình. Chính Chúa Kitô sau này đã có những cuộc đối thoại với con người, như
cuộc đối thoại với Nicôđêmô, nhờ đó, con người hiểu được phần nào về chính
Người và thân phận của mình: “Thiên Chúa
đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người để tất cả những ai tin vào
Người Con ấy thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16-17)
III. Lịch sử cứu độ và những liên hệ trong đời sống
đức tin
Qua việc tạo
dựng, Thiên Chúa bày tỏ cho chúng ta thấy sự toàn thiện của Ngài trong trật tự
tự nhiên, và qua đó con người có thể nhận ra ngài.
Ngài chính
là tác nhân làm nên lịch sử, hay một “địa chỉ” đáng tin cậy nhất. Bởi tất cả đã
được trình bày một cách hoàn toàn tuyệt vời qua bức tranh tự nhiên được Ngài tô
vẽ một cách tài tình và cực kỳ chính xác.
Lịch sử cứu
độ đề cập đến ơn gọi của Ap-ra-ham, đến việc tuyển chọn dân Israel, đến giao
ước cũ là giai đoạn chuẩn bị cho giao ước mới được thực hiện trong máu của Đức
Kitô, đến dân đích thực của Thiên Chúa.
Lịch sử cứu
độ liên quan đến hoạt động mục vụ phụng vụ trong Giáo Hội. Bản chất của Giáo
Hội là truyền giáo. Giáo Hội nhờ việc nắm giữ kho tàng ân sủng Đức Kitô đã để
lại với mục đích hướng dẫn dân Chúa đang lữ hành trên trần gian này hướng về
đích điểm của niềm hy vọng và hạnh phúc.
IV. Mạc khải trong lịch sử
Mạc khải có
thể hiểu như vén một bức màn để thấy những điều bí ẩn bên trong. Đây là việc
Thiên Chúa, bằng hành động hay lời nói, khiến ta biết Ngài hoặc ý định của
Ngài, nhờ đó quy hướng về Ngài và qua đó Ngài tự trao mình cho ta.
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải
chính mình và tỏ mình cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài. Nhờ đó loài
người có thể đến cùng Chúa Cha nhờ Chúa Kitô Ngôi lời nhập thể trong Chúa Thánh
Thần và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa”(MK 2).
Chúng ta có
thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa qua những dòng trên của Hiến Chế Mạc khải.
Đây là một hành vi tự do của Thiên Chúa, (do lòng nhân hậu và khôn ngoan, do
lòng yêu mến tràn đầy) không phải là cái gì được trao ban cùng với bản tính con
người trong việc tạo dựng.
Thiên Chúa
đã mạc khải cho con người trong lịch sử cứu độ duy nhất. Ý đồ của mạc khải này
là kêu gọi con người tiến tới thông dự vào bản tính Thiên Chúa Ba Ngôi. Tất cả
nhân loại được mời gọi tiếp nhận ý đồ sâu nhiệm đó của Đấng mạc khải. Nhưng
Thiên Chúa là Đấng vô hình, chúng ta chỉ nhận biết Ngài qua những gì đã được tỏ
hiện. Như vậy, Thiên Chúa cho con người biết được về Ngài qua mạc khải, và mạc
khải đó có thể là tự nhiên hoặc siêu nhiên.
1. Mạc khải tự nhiên
a. Trật tự trong vũ trụ
Qua những
điều kỳ diệu của việc tạo dựng, một phần tạo vật đã phản ánh thượng trí vô cùng
của Thiên Chúa, cũng như sự toàn năng và quan phòng của Ngài[3].
“Thiên Chúa Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi
Lời, không ngừng làm chứng về mình trước mặt loài người qua các tạo vật”(MK 3).
b. Mạc khải qua các quy luật
Qua các hình
thức giáo huấn và luật pháp cũng như quy luật mà con người nhìn thấy tận thâm
sâu của nội tâm, một thứ luật mà con người không thể tự tạo ra cho chính mình,
trái lại con người cảm thấy mình phải vâng phục nó.
c. Lý trí đón nhận mạc khải
“Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ
các tạo vật, nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh
của mọi sự” (MK 6) .
Thiên Chúa
tạo nên con người có những khả năng có thể nói là vô biên. Ngài trao cho con
người một môi trường hoạt động mênh mông, trong đó họ được tha hồ vùng vẫy: tự
do định đoạt lấy những cơ cấu và những phương hướng hoạt động. Nhưng con người
không thể là toàn năng. Họ nhất thiết phải cần đến Thiên Chúa trong những vấn
đề hệ trọng vượt tầm sức của mình.
Tìm dấu vết
của Thiên Chúa trong thế giới vật chất, mới chỉ là phương tiện nghèo nàn đưa
đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ tạo dựng.
· Mạc khải tự nhiên không trao gởi cho chúng ta một
Thiên Chúa toàn vẹn, mà lắm khi còn đẻ ra một “quái thai” Thiên Chúa, khi mà
nguyên tội làm mờ chột trí năng của tôi.
· Mạc khải tự nhiên cũng không trao gởi cho ta một Thiên
Chúa sống. Nó cho thấy sự hiện hữu của Ngài cùng với thuộc cách cốt yếu, nhưng
nó không dẫn ta vào đời sống bên trong của Ngài.
Vì thế con
người cảm thấy sự bất lực và tối tăm của mình. Con người cần một can thiệp ngoại
thường về phía Thiên Chúa, một mạc khải siêu nhiên.
2. Mạc khải siêu nhiên
Không thờ ơ
trước sự bất lực của con người trong nỗ lực khao khát sự thánh thiện. Thiên
Chúa đã can thiệp vào lịch sử, không những mạc khải chính mình mà còn mạc khải
ý định muốn cứu vớt. Không những giúp con người đi vào đạo làm người, Ngài còn
muốn mở cho họ con đường làm thần, cho họ dự vào chính hạnh phúc và đời sống
bên trong của Ngài nữa.
a. Qua các biến cố
Thiên Chúa
đã can thiệp vào lịch sử bằng những hành động lịch sử. Qua các biến cố, khởi
đầu từ việc chọn và lập giao ước với Ap-ra-ham cùng dòng dõi ông (dân tộc Do
thái). Trải qua nhiều thế hệ, việc tuyển chọn những người trung gian như:
Mô-sê, Ê-li-a… cũng như việc sửa trị,
răn đe, xếp đặt và điều khiển các biến cố lịch sử của nhân loại, chiến thắng
cũng như thất bại, lưu đày và bách hại, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thiên
Chúa, để chuẩn bị cho Giáo Hội trong Tân Ước, và tất cả đã cấu thành một lịch
sử Thánh.
b. Qua lời nói.
Qua lời nói,
Thiên Chúa đã tự mạc khải mình. Lời ấy đã xuất hiện cách vô cùng hữu hiệu trong
các công trình của Người: phán một lời liền có mọi sự, thực hiện điều người đã
hứa hoặc tiên báo.
Nhiều lần và
nhiều cách qua các tổ phụ rồi các ngôn sứ, Thiên Chúa đã cho cha ông chúng ta
biết ý muốn của Người và nhờ họ truyền đạt cho dân.
Cuối cùng,
Thiên Chúa đã tự mạc khải bằng chính Lời nhập thể là Đức Kitô. Ngài chính là
Lời chứ không phải tiếng vang từ lời. Mạc khải nơi Đức Kitô là mạc khải trực
tiếp. Và nơi Đức Kitô, mạc khải trở thành toàn
khải, hoàn tất mạc khải. Mạc khải này cũng thực hiện sự thần hoá con người,
trong khi thực hiện sự thần hoá con người, trong khi mạc khải qua ngôn sứ chỉ
hứa hẹn sự thần hoá ấy.
c. Đức tin đón nhận mạc khải
“Đức tin bảo đảm cho những gì chúng ta hy vọng, là
bằng chứng cho những điều chúng ta không thấy”[4] .
Mạc khải là
một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với con người. Chính Thiên Chúa đi bước
trước trong cuộc đối thoại này, qua các biến cố và lời nói mà lịch sử cứu độ
thuật lại. Để đi vào cuộc đối thoại đó, con người phải đáp trả bằng đức tin.
Còn nữa....
[3] Jacques Lacourt,
trong cuốn “Question sur la vie et la foi” ông đã viết về vũ trụ kỳ diệu như
sau: cuộc sống thật là một cuộc mạo hiểm lạ lùng! Tôi được đặt vào một cổ máy
tròn trịa là trái đất này, mà chẳng cần hỏi xem có bằng lòng hay không. Tôi bám
vào trái đất như một con ruồi đậu trên một quả cầu. Tại xích đạo, trái đất quay
quanh mình mỗi ngày một vòng lớn với tốc độ 1000km/giờ và quay quanh mặt trời
theo môt quỹ đạo hình bầu dục với vận tốc 108.000km/giờ…
Một câu hỏi được đặt ra, vũ trụ
được cấu tạo như thế nào, làm sao vũ trụ lại là một thực tại có thể hiểu được,
vì những nhà thông thái như Newton đã khám phá ra những định luật trong vũ trụ
ấy? Ai là tác giả của những điều kỳ diệu này? Nếu quả thật có quy luật, đó là
do ai vậy?
Tổng thống Mỹ Ap-ra-ham Licon đã
nói: “Tôi có thể hiểu được nếu chỉ nhìn vào mặt đất mà vẫn sống vô thần; thế
nhưng tôi không thể tài nào hiểu được làm sao đêm đêm khi ngước mắt nhìn trời
mà lại nói rằng chẳng có Thiên Chúa”.