ĐÔI DÒNG TÂM SỰ VỚI CÁC TU SĨ
Chúng ta đang sống trong năm đời sống
thánh hiến. Nhân dịp này đề nghị các tu sĩ trong giáo phận duyệt lại đời tu của
mỗi người và đưa ra những quyết tâm thực tế cho những ngày sống sắp đến.
Hồi tưởng lại những năm còn mới chập
chững đi tu, các bạn sẽ thấy bao hồng ân kỳ diệu của Chúa, nhất là êm ái thay
tiếng gọi của Ngài. Ngài đưa các bạn đến cổng tu viện như người mẹ dắt con trèo
lên Núi Thánh.
Rồi tuổi dòng tăng dần cùng với tuổi
đời, nét mặt ngây thơ trong sáng, cuộc sống hồn nhiên đã mất dần rạng rỡ, để
nhường chỗ cho cách sống kỷ luật, khắc khổ chịu đựng và đương đầu với nhiều
thực tập, thử thách. Bàn tay Chúa có lúc bọc nhung và các bạn thấy đời tu êm
ái, nhưng nhiều khi bàn tay đó lại bọc sắt, làm cho tay các bạn có lúc đau buốt
nhưng chân vẫn bước theo Chúa và lòng trí vẫn xác tín rằng bàn tay kia dù có
bọc sắt vẫn là bàn tay dịu hiền của Chúa, vì một ngày kia lớp nhung lớp sắt sẽ
biến đi và chúng ta sẽ được hạnh phúc hôn bàn tay đã từng tạo dựng, tái sinh,
thi ân giáng phúc và bao che chúng ta.
Trong tuổi trẻ đầy sức sống và giàu lòng
quảng đại, các bạn đã từng nhiều lần bước lên tuyên khấn trước nhan Chúa và
Giáo Hội. Các bạn tuyên khấn theo Chúa trong ba nhân đức trinh khiết, khó nghèo
và vâng phục, nhưng không phải chỉ bấy nhiêu mà còn cố tâm họa lại cách trung
thực hết sức có thể bức chân dung Chúa, nhất là hình ảnh Chúa chịu đóng đinh.
Các bạn được đưa ra các nhiệm sở để phục vụ. Đời sống xa lìa tổ ấm có lúc mang
lại nhiều niềm vui, nhưng cũng có những nỗi cơ cực đắng cay và buồn chán. Cơn
thử thách nhiều khi quá nặng đã làm có lúc các bạn chùng bước và nhiều lần bị
cám dỗ tháo lui. Nhưng đôi mắt từ ái của Chúa vẫn dõi theo các bạn như xưa đã
dõi theo con thuyền Phêrô bập bềnh trên sóng nước. Lòng yêu thương vô biên của
Chúa đã gởi đến trong đời các bạn những con người nào đó, những biến cố nào đó
để giúp các bạn vượt qua những cơn thử thách nảy lửa và lấy lại niềm tin. Mỗi
năm các bạn được về lại tổ ấm để bồi dưỡng tinh thần và thể chất. Rồi cam kết,
rồi dốc quyết, lên đường trong một tinh thần mới, một thân xác khỏe mạnh, các
bạn lại lao mình vào công việc, chứng nhân tông đồ, mục vụ. Đời tu cứ thế,
trách nhiệm tăng dần và có thể nói được tất cả là ân sủng, là hồng ân của Chúa
gởi đến cho người bạn của Ngài, người mà Chúa chọn giữa muôn một để trở nên
giống Ngài.
Đặc biệt hơn, trong thời gian qua thời
cuộc đã thay đổi tận gốc và cuộc sống người tu sĩ vì thế mà có nhiều xáo trộn,
tâm tư các bạn cũng lâm phải những lo âu mới, những xao xuyến mới và trên lưng
trên vai các bạn có ai đặt lên những Thánh Giá mới, nặng cân và cao dài hơn.
Những công trình, những tổ chức, những dự định cho tương lai nhiều khi tan biến
nhanh chóng. Cứu tế, xã hội, học đường nay đã đi vào hướng khác và người tu sĩ
thấy mình đi ngược lại dòng lịch sử. Khi trở về với quá khứ, người tu sĩ có thể
đã gặp lại các tiền nhân của mình trong việc dùng đôi bàn tay trắng để sinh
nhai và dùng đôi chân gầy của mình để rong ruổi qua những ngõ ngách truyền giáo
giúp đời và làm chứng nhân cho Chúa. Điều nầy đáng mừng hay đáng lo? Chúng ta
nên nhớ nguyên tắc căn bản: Đức tin, tin vào Chúa Kitô, nếu là chân chính phải
được sống trong bất cứ môi trường xã hội hay chính trị nào, lòng mến Chúa Kitô,
nếu sống động, đích thực, phải vượt thắng mọi lo âu sợ hãi và thành kiến. Hơn
nữa, chúng ta đã được Chúa báo trước như Ngài đã từng căn dặn các tông đồ quý
yêu của Ngài. Giữa đời đau khổ ngang trái, đầy giả dối và bất công, chúng ta
hãy như những chiếc đèn sáng soi trong u tối và lòng luôn tâm niệm: “Và Người
sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Giữa những thử
thách khủng khiếp nhất, các bạn hãy nhớ lại lời sách Khải Huyền: “Thiên Chúa sẽ
lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than
và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất” (Kh 21, 4). Như vậy chúng ta đừng
yếm thế, bi quan, buông xuôi nhưng hãy phấn đấu hăng say chạy đua với thời
gian, hãy tin chắc đường ta đi tuy có chông gai sỏi đá, rắn dữ, hùm beo, nhưng
vẫn có hoa thơm cỏ lạ, có Simon và Vêrônica, đặc biệt có Mẹ Maria ở vào chặng
thứ bốn trên đường Thánh Giá.
Những trở ngại to lớn đến từ thái độ
sống của con người, kẻ nghịch luôn làm khó dễ, chen lấn liên lỉ, giành giật,
gây trở ngại phiền phức cho công việc sinh sống, công việc tông đồ. Chính Chúa
Giêsu đã từng báo trước cho chúng ta biết về những hoàn cảnh và các trở ngại
nầy khi Ngài nói về dụ ngôn “cây lúa và cỏ lùng” (x. Mt 13,24-30). Ngày nào còn
đi trên con đường lữ thứ, ngày đó chúng ta phải sống cảnh vàng thau lẫn lộn.
Những hoạt động bị hạn chế, danh tiếng bị lu mờ, chống đối dồn dập tứ phía lại
chính là những lưỡi kéo cắt tỉa của chủ vườn nho là Thiên Chúa, như Chúa Giêsu,
Chúa chúng ta đã nói: “cây nào sinh trái tốt, cha ta cắt tỉa” (Ga 15,2). Nhờ sự
cắt tỉa nầy mà cành non sẽ đâm chồi, nở hoa và nặng trĩu trái chín ngọt thơm
ngon.
Nhìn vào cảnh sống trong nhà, nhiều đụng
chạm, nhiều hiểu lầm, rồi có sự khác nhau về tuổi tác, khác nhau về kiến thức,
làm lắm phen sóng gió nổi lên. Rồi vì những bất hòa đó mà mỗi người cảm thấy
mình lạc lõng như bị bỏ rơi, không có ai thông cảm. Chúa Giêsu, Chúa chúng ta,
trong suốt cuộc đời công khai đã mất dần những cảm tình và kẻ nghịch ngày càng
đông, ngay cả các môn đệ cũng tuần tự bỏ thầy, Giuđa là tông đồ trong nhóm 12
lại nộp thầy cho quân dữ, Phêrô trưởng nhóm chối thầy không chút do dự, bà con
của Ngài coi Ngài như kẻ điên nên lập kế bắt Ngài đem về nhà. Trong khi Ngài bị
bắt, mọi người đều bỏ trốn và trên Thánh giá Chúa đã thốt lên lời vừa than
trách mà cũng vừa là một lời cầu: “Lạy Cha, nhân sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt
27,46). Chúa Cha đã không bỏ Ngài. Thời gian là yếu tố quan trọng, nhẫn nại đợi
chờ vì sau ngày thứ Sáu Thánh sẽ đến ngày Phục sinh.
Hãy ý thức Chúa quan phòng đưa ta đi vào
những nẻo đường chông gai nhưng kỳ diệu. Phải thú thật xã hội ta đang sống hiện
giờ càng ngày càng đi vào chỗ đồi trụy, nhân phẩm của con người bị chà đạp hầu
như không lối thoát, duy vật thực tiễn đã lan tràn và thực dụng chủ nghĩa đã
làm cho con người hầu như quên hết những giá trị thiêng liêng. Làn sóng hưởng
thụ, chạy theo tiền bạc, chuộng tự do quá trớn cũng xâm nhập vào nhà tu và nếu
không có cánh tay của Chúa quan phòng ngăn chận, không biết đời sống chúng ta
sẽ ra sao. Hàng ngày người ta xin cho được hòa bình với những cuộc rước kiệu
Đức Mẹ rất linh đình, nếu có đức tin, chúng ta phải tin rằng trái tim Mẹ đã
thắng và hòa bình đã đến nơi. Hòa bình không như ta ước mơ nhưng là một hòa
bình trong hy sinh hãm mình, để chúng ta sống thánh giữa đời và để sự đau khổ
đưa ta về cõi vinh quang cách bảo đảm hơn.
Trong tâm tư chúng ta cần nhiều thay đổi
để sống Phúc Âm mạnh mẽ hơn. Nếu đang tranh nhau phô trương, thì hãy tìm cách
trút bỏ, nếu cứ đòi hỏi xa hoa lộng lẫy, phù phiếm thì hãy sống đơn sơ đạm bạc.
Nếu thường sống phản chứng thì hãy can đảm sống chứng tá đích thực. Đừng tranh
giành địa vị đòi ưu tiên. Nếu bị cám dỗ sống xa hoa trụy lạc, thì cần nghiêm
túc sống đời khổ hạnh. Quả thật trái tim Mẹ đã thắng bởi mỗi lần hiện ra ở đâu,
Lộ Đức, Fatima hay La Vang, nơi nào Mẹ cũng kêu gọi: hãy ăn năn đền tội. Tại
sao chúng ta chỉ thấy đời đau khổ, chúng ta than van sao không nhìn thấy đó là
món quà Chúa trao ban để tôi luyện chúng ta. Một tu sĩ không có quyền than
trách Chúa vì những Thánh Giá Chúa gởi đến cho đời mình, nếu không sẽ tự mâu
thuẫn khi chọn sống đời thánh hiến.
Như vậy điều trước tiên ta cần phải dốc
quyết là sống đời hy sinh đền tạ, và cần phải hy sinh mỗi ngày nhiều hơn. Rất
nhiều dịp phải hy sinh. Dịp to lớn thường ít xảy đến như đưa cổ cho người ta
chém hay phải bị biệt giam thiếu hết mọi thứ cần thiết, chết dần chết mòn. Nhưng
trong đời sống thường nhật có nhiều hy sinh, như cố tươi cười với người nói móc
họng mình, thinh lặng trước vu cáo bất công, yêu thương một người bạn phản bội,
không nói một lời chua chát để trả đũa. Chị thánh Têrêxa Hài Đồng đã không làm
gì hơn, chị đã xích lại gần hơn bên cạnh một chị đang giặt đồ mà đã để bọt xà
phòng bắn lên người chị, hay chị cố gắng lắng nghe tiếng tràng hạt khua leng
keng do một chị khác làm náo động sự thinh lặng mà chị đang cần… Khi dịp lớn
đến hay trong những dịp nhỏ, hy sinh đòi chúng ta phải tự siêu thoát hóa đời
sống. Những ai theo Chúa dĩ nhiên phải sống đời hy sinh. Thánh Phaolô đã mô tả
cuộc đời đó: “Đói khát, rách rưới, bị trộm cắp, roi đòn, đắm tàu, vu vạ, ngục
tù, chết chóc”. Hơn nữa chúng ta không hy sinh một mình mà chung quanh ta hiện
nay biết bao người sống đời hy sinh: người ta hy sinh cuộc đời để đổi lấy miếng
cơm manh áo, nuôi cháu nuôi con. Còn chúng ta hy sinh để cứu rỗi linh hồn mình
và linh hồn người khác, tại sao chúng ta lại do dự? Chúng ta còn có Chúa luôn ở
bên cạnh, đức tin đã dạy chúng ta như vậy. Chúa luôn là người bạn đường, người
hướng dẫn, người bạn trung tín, người an ủi. Mỗi ngày chúng ta rước Chúa trong
thánh lễ, nhưng không phải rước để chỉ riêng cho ta, mà hãy truyền sức sống
sang cho bao nhiêu người khác đang trải qua cơn thiếu “máu thiêng liêng”. Hãy
nhìn lên Thánh Giá, nơi Chúa chịu đóng đinh. Hình ảnh đó của Ngài sẽ là lẽ sống
cho suốt đời ta.
Dốc lòng thứ hai là hãy bền chí. Bền chí
cần có sự bạo dạn, can đảm. Bạo dạn khác với mạo hiểm, phiêu lưu, liều mạng.
Trong ngày sống, mỗi sáng thức dậy, hãy khởi sự cuộc đời trong hăng say, lạc
quan. Dù đường đi có nhiều trắc trở, dù phải đi ngược chiều, quay lưng về phía
Giêrusalem như hai môn đệ đi về làng Emmaus, Chúa vẫn bám sát ta, theo dõi,
đồng hành với ta, rồi Ngài sẽ dẫn ta về với đường ngay nẻo chính. Dù mọi người
bỏ dở cuộc hành trình, chúng ta vẫn giữ vững tinh thần, mặc dù cảm thấy rã rời
nguội lạnh, hãy kiên nhẫn bền đỗ và vững tin ở Chúa, Đấng đã làm cho người chết
sống lại, sẽ phục sinh chúng ta. Mỗi ngày hãy can đảm, dứt bỏ, khước từ tính tự
ái, tăng thêm bác ái và luôn bền chí trong yêu thương.
Điều dốc quyết thứ ba là cam kết một lần
nữa sống trọn vẹn ba nhân đức: vâng phục, thanh bần và trong trắng. Đức vâng
phục bắt nguồn từ mầu nhiệm nhập thể, như thánh Phaolô đã miêu tả trong thư gởi
giáo đoàn Philipphê: Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài không muốn dành địa vị
chính đáng của Ngài, một muốn làm người để ở giữa những tên nô lệ. Thế rồi Ngài
vâng phục, vâng phục cho đến chết và chết ô nhục trên khổ giá (x. Phil 2,6-8).
Đời Chúa là như thế đó. Chúng ta là những Kitô hữu, những người theo Chúa, ta
không có con đường nào khác. Adong vì bất tuân, mà đã đưa nhân loại vào cõi
chết. Ta muốn cứu sống hãy vâng phục như chính Chúa Cứu Thế. Vâng phục không
phải nhằm đến cá nhân mà là nhằm cộng đoàn. Từ bề trên đến bề dưới, mọi người
đều phải vâng phục, nghĩa là cùng nhau tìm hiểu ý Chúa. Dĩ nhiên bề trên phải
định đoạt, nhưng trước khi định đoạt, cần phải trao đổi. Vâng lời tích cực có
nghĩa là hãy đưa ra sáng kiến, tìm hiểu, lắng nghe trình bày, nhận chỉ thị và
sáng suốt thi hành. Chúng ta đừng xét đoán cấp trên và xem coi cấp trên có
gương mẫu hay không? Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ Maria và Thánh Giuse là những
con người thụ tạo, trong khi Chúa thực sự là Thiên Chúa. Bề trên là người Chúa
chọn thay mặt Ngài, chứ không phải làm bề trên là hoàn toàn do ý muốn nhân loại
phàm trần. Phêrô dù chối thầy, Chúa vẫn chọn làm giáo hoàng, Gioan dù là người
môn đệ Chúa yêu, nhưng Chúa lại không chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Vậy thì chúng
ta đừng để tâm xét nét bề trên. Người bệnh thì cần nghe lời thầy thuốc đâu cần
phải hạch sách đòi hỏi thầy thuốc phải là người khỏe mạnh. Hơn nữa, vâng lời là
một nhân đức đâu dễ thực hiện, phải tập nhiều từ việc nhỏ đến việc lớn. Vâng
lời là một lời khấn trọng nhất trong ba lời khấn và đòi hỏi hy sinh tất cả, hy
sinh chính nhân vị của mình. Do đó vâng lời biến người tuyên khấn thành của lễ
toàn thiêu.
Ngày nay lời khấn khó nghèo không phải
là khó giữ, có khó là khó từ bên trong vì tinh thần xa hoa lúc nào cũng mai
phục, cũng nằm vùng trong chúng ta. Hãy dùng tiền của để mua Nước Trời, Chúa đã
nói như vậy. Đừng ham làm, ham sống đến nỗi quên cả kinh sách, quên cả việc
thiêng liêng, biến cộng đoàn huynh đệ thành “chung cư lao động”. Đừng thu tích
quá nhiều, kẻo Chúa để cho mất hết. Lịch sử thánh đã chứng minh điều đó: khi
dân Do Thái sang giàu, nhiều củ hành củ tỏi, Chúa đã dẫn họ vào rừng vắng, vào
sa mạc chỉ có cát và nắng, mỗi ngày chỉ ăn manna, uống nước suối. Hãy thực hiện
điều chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày”. Chúng ta
không xin giàu sang, chỉ xin đủ sống. Vậy chúng ta hãy sống nghèo trong nơi ở,
trong cách ăn mặc, trong thức ăn, trong đồ dùng, trong việc làm; sẵn sàng
nhường chỗ tốt, cái tốt, danh tiếng tốt, thành công, địa vị cho người khác… Đó
cũng là đời sống chứng tá hùng hồn nhất. Thế gian không thấy ta vâng phục, ít
rõ ta trinh khiết đến mức nào, nhưng thế gian rất nhạy cảm trước cuộc sống
thanh bần của chúng ta.
Thời đại ngày hôm nay người ta ưa chuộng
vật chất, nhưng thực sự người ta vẫn khao khát giá trị tinh thần. Nếu người ta
khao khát thực sự, chúng ta hãy cho họ chiêm ngưỡng vẻ đẹp siêu nhiên. Nếu
người ta mê vật chất, chúng ta hãy dùng đời sống khiết tịnh vì Nước Trời của
mình để cho họ thấy nó còn đẹp hơn muôn vàn lần sắc đẹp chóng tàn của vật chất.
Còn một khía cạnh khác của đức trinh khiết là giúp người tuyên khấn rảnh tay để
phục vụ. Người khấn khiết tịnh là người khước từ mọi bận bịu của cuộc đời trần
thế để trở thành mọi sự cho mọi người, trở thành người của muôn người, sẵn sàng
phục vụ bất cứ ai, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, vì người tu sĩ thoát mọi
ràng buộc của gia đình, của yêu thương theo kiểu thế tục (x. 1Cr 7,32-35). Lý
thuyết thì cao đẹp, nhưng việc bảo vệ đức trinh khiết là một điều khó, bởi lẽ
xác thịt nằm ngay trong chính con người của chúng ta, bạn bè xấu của ta với
những khí giới ngày càng tối tân. Nếu chúng ta không hiện đại hóa khí giới của
mình là cầu nguyện, năng chịu các bí tích, hãm mình hy sinh, nếu chúng ta không
đề cao cảnh giác, tỉnh thức canh phòng, thì chúng ta sẽ đi từ thảm bại nầy đến
thảm bại khác. Nhưng nếu có bại trận, thì chưa phải là thua cả cuộc chiến.
Chúng ta hãy cấp tốc xây dựng lại cuộc đời và Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có
thể biến sự dữ ra sự lành, kể cả tội lỗi, Ngài cũng đổi thành ơn phước.
Dốc quyết thứ tư là phải khiêm nhường.
Chúng ta hãy học cùng Chúa Giêsu, Đấng đã từng nói: “Hãy học cùng ta, vì ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Ngài là Thiên Chúa thế mà lại hạ mình
thẳm sâu sống giữa chúng ta và chết ô nhục trên thập giá. Ngài đã chọn bước
đường cùng để chúng ta học với Ngài hầu sống thấp bé, sống rốt hèn, sống không
chút mặc cảm tự tôn, vì chúng ta phải luôn suy nghĩ Chúa là “có” mà Ngài còn
sống như vậy huống chi chúng ta là “không”. Khiêm nhường giúp chúng ta thắng
vượt những dằn vặt của tự ái, những điên cuồng của kiêu ngạo. Chúng ta cũng hãy
noi gương khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ Maria khi được Chúa chọn làm Mẹ Ngôi
Hai, Đấng cứu thế nhân loại. Mẹ đã cúi đầu thưa: “Nầy tôi là tôi tá Chúa, tôi
xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1,37). Để phục vụ tốt, chúng ta cũng
phải tự coi mình là những tôi tớ vô dụng của Chúa và của mọi người. Thử thách
đắng cay nhất trong đời ta là chấp nhận những giới hạn của mình. Nhưng nếu có
đức khiêm nhường, ta sẽ vui lòng lãnh lấy Thánh Giá nầy và hãnh diện nói như
thánh Phaolô: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn
nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”
(2Cr 12,10).
Dốc quyết cuối cùng đó là sống vui tươi
bác ái. Tại sao chúng ta kém vui? Chắc là vì tâm hồn ta còn có những khúc mắc
nào đó, hãy trình bày với Chúa để giải tỏa đi. Những thành công, những thất bại
không được làm xáo trộn đời yên vui của người tu sĩ, vì nếu người tu sĩ đã tự
coi mình là người tôi tớ khiêm hạ và vô dụng của Chúa thì mọi sự chỉ làm theo
lệnh của Chúa, của lương tâm, thì không có lý do gì để quá hãnh diện hoặc sầu
buồn. Hoặc tu sĩ cao niên nói rằng, già chừng nầy rồi còn gì nữa mà vui, lo dọn
mình, lo tu đức, lo chuẩn bị đón Chúa, chứ có thích thú gì nữa mà vui, hãy để
cho đám trẻ. Đúng như vậy, người già thì thường an thân, thích đọc kinh cầu
nguyện, không thích cười giỡn, nhưng cười giỡn cũng không phải là vui, nhiều
khi người ta vui quá mà tuôn trào nước mắt. Như vậy, vui nói ở đây chính là
bằng lòng chấp nhận mọi sự do thánh ý Chúa gởi đến, không than van và luôn ở
trong tư thế của người được yêu thương. Cái vui ấy phải lan tràn khắp con người
của chúng ta, như máu nóng chạy từ tim qua huyết quản, và chảy tràn khắp thân
thể, làm rộn rã trái tim, thì sức sống thiêng liêng phải dạt dào trong tâm hồn
ta cũng phải lan tỏa làm cho người khác vui lây. Người vui thì đi đến đâu cũng
gây niềm cảm mến, an bình, chúc tụng, ngợi khen Chúa, hòa hợp và yêu mến lẫn
nhau. Cái vui của người tận hiến là như vậy, không miễn trừ tuổi tác hay địa
vị. Một người sống đời tận hiến mà không vui là người tu sĩ đáng buồn. Vui tươi
là hoa trái của bác ái. Nếu chúng ta muốn có niềm vui bền dai và thật sự, thì
phải sống bác ái, huynh đệ. Đời sống cộng đoàn, như ta biết là đời sống tối
hảo, do đó Giáo Hội đã bao thế kỷ nay chúc phúc cho các Hội dòng có đời sống
chung vững chắc. Thánh Vịnh gia cũng đã cất tiếng ngợi khen: “Ngọt ngào tốt đẹp
lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 132,1). Chúa cũng đã nói, ở
đâu có hai ba người họp lại vì danh thầy thì có Cha thầy ở giữa. Nếu chúng ta
đang sống trong cộng đoàn dù nhỏ bé xa xôi đi nữa, thì luôn lấy yêu thương làm
lẽ sống. Yêu người là trắc nghiệm cho lòng mến Chúa. Yêu thương không phải lúc
nào cũng vuốt ve chiều chuộng, nhưng có lúc cũng phải làm phiền lòng người mình
yêu vì sự thật và vì ích lợi của người đó. Nhiều lúc chúng ta bị tê liệt không
thể hoạt động gì, thì hãy yêu thương, yêu thương mạnh hơn sự chết, sẽ giúp
chúng ta thắng vượt tất cả. Hạt giống tình thương sẽ tăng gấp trăm gấp nghìn
lần hoa trái, sau một thời gian nằm im trong lòng đất của nhẫn nại và hy sinh.
Qui Nhơn, ngày 01 tháng 01 năm 2015
+ Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn