Ba Lời Khuyên Phúc Âm trong cuộc đời linh mục giáo phận (I)

 BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
TRONG CUỘC ĐỜI
 LINH MỤC GIÁO PHẬN

 Lm. G. Võ Tá Hoàng



Dẫn nhập cho đề tài hôm nay, con xin thuật lại một chủ đề tình cờ đọc được trên một trang mạng nói về linh mục giáo phận và linh mục dòng (Tu sĩ). Câu hỏi đặt ra cho chủ đề này : Đâu là sự khác biệt giữa linh mục dòng và linh mục giáo phận?[1] Câu trả lời có sẵn : tất cả các linh mục công giáo giống nhau về nhiều phương diện. Mỗi linh mục đều trải qua nhiều năm đào tạo và chuẩn bị tại chủng viện trước khi chịu chức. Tất cả các linh mục được chịu chức để rao giảng Tin mừng và phục vụ dân Chúa trong Đức Kitô. Quan trọng hơn, họ là người quản lý các bí tích của Giáo hội và giúp dân chúng đạt đến nước trời.

Những khác biệt dễ thấy nhất qua việc so sánh các lời khấn (vows) được thực hiện bởi các linh mục dòng và các lời hứa (promises) của các linh mục giáo phận.

Các linh mục giáo phận thực hiện ba lời hứa khi chịu chức :

·       Đọc Kinh Phụng Vụ
·       Vâng lời Giám mục
·       Sống độc thân


Linh mục giáo phận sống và làm việc trong địa hạt nào đó thuộc giáo phận. Thường thì vị linh mục đó được giám mục giao cho một giáo xứ, ngài sống và làm việc tại đây. Linh mục giáo phận không thực thi lời hứa khó nghèo, thường thấy có xe riêng cùng những thứ sở hữu khác nhằm phục vụ cho công việc và đời sống cá nhân của ngài. Công việc chính của ngài là rao giảng Phúc âm, dâng thánh lễ, xức dầu bệnh nhân, rửa tội, cử hành lễ cưới, lễ an táng và an ủi những người cần đến sự giúp đỡ của ngài. Ngài là nơi tập trung mọi nhu cầu của giáo dân trong giáo xứ.

Trong khi đó, linh mục dòng thi hành ba lời khấn trọng thể trước khi thụ phong linh mục, là sống :

·  Khó nghèo
·  Khiết tịnh
·  Vâng phục

Ba cách sống này được gọi là các “Lời Khuyên Phúc Âm” vì chúng được Chúa giới thiệu cho các Kitô hữu như là thành phần của Tin mừng. Thật vậy, Giáo lý Công giáo dạy rằng mọi Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm theo bậc sống của mình, tuy nhiên các linh mục dòng đòi hỏi sống những điều ấy cách mật thiết hơn. Các linh mục dòng lựa chọn cộng đoàn tu trì dựa trên lối sống và sứ mạng. Một số cộng đoàn sống rất khổ chế trong khi một số khác thì không. Một vài cộng đoàn có nhiệm vụ với những người già, giới trẻ hay người nghèo. Một số thì phục vụ như giáo viên tại các trường học hay truyền giáo ở nơi khác. Hầu hết họ thường sống chung trong cộng đoàn với anh em thay vì sống giữa giáo dân trong giáo xứ.

Chủ đề trên đây cho chúng ta thấy có một sự khác biệt rõ ràng trong việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm giữa các tu sĩ và linh mục giáo phận (linh mục triều). Đọc lại trong các văn kiện của Giáo hội, có thể nói ba lời khuyên Phúc âm thường được trình bày có hệ thống cho đời sống tu dòng hơn là cho các linh mục giáo phận. Linh mục giáo phận không khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm như các tu sĩ, nhưng ý nghĩa và giá trị của nó luôn gắn liền với đời sống và công việc mục vụ của linh mục. Và “dẫu cho không bị ràng buộc bởi ba lời khuyên Phúc âm do bậc giáo sĩ, nhưng những lời khuyên Phúc âm này cũng đem đến cho họ, cũng như cho mọi môn đệ Chúa, phương thế chính quy để đi tới mục tiêu đáng khát mong là sự hoàn thiện Kitô giáo”[2]. Ba lời khuyên Phúc âm như cốt lõi của giao ước tình yêu là trở nên giống Chúa Giêsu trên con đường hoàn thiện. Dù là tu sĩ hay linh mục giáo phận, ba lời khuyên Phúc âm như một sợi dây xuyên suốt cuộc đời, trở nên chứng từ sống động của tình yêu thuộc trọn về Chúa, sống cho Chúa và phục vụ tha nhân.


TỔNG QUÁT VỀ BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
DƯỚI NHÃN QUAN THẦN HỌC
VÀ CÁC GIÁO HUẤN

Ba lời khuyên Phúc âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục đặt nền trên lời dạy và gương lành của Chúa, đó là tặng phẩm của Thiên Chúa được Giáo hội lãnh nhận từ Chúa Giêsu và luôn trung thành gìn giữ. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chính thẩm quyền Giáo hội đã nỗ lực chú giải quy định việc thực hành, cũng như thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy[3]. Ba lời khuyên là một trong những yếu tố trung tâm và là đặc tính của đời sống tu trì. Đó là ân huệ của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho con người, cách đặc biệt cho những ai dấn thân trong đời sống tận hiến.

I. TÌM HIỂU VỀ NỀN TẢNG CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Khi nói về đời sống tận hiến, người ta thường nhắc đến ba lời khuyên Phúc âm. Tuy nhiên, khi đọc lại Tin mừng, ta thấy không phải chỉ có ba lời khuyên như chúng ta thường nói mà còn có rất nhiều lời khuyên và điều buộc phải giữ (10 điều răn). Huấn quyền của Giáo hội qua Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến cũng cho chúng ta thấy rõ điều này. Trong khi ở số 1 nói về Chúa Giêsu như một người khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, thì ở số 77 Tông huấn chỉ dẫn Chúa Giêsu như người khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo. 

1. Thần học hệ thống hóa ba lời khuyên Phúc âm.

Qua dòng lịch sử và kinh nghiệm sống theo Truyền thống, Giáo hội đã tìm thấy được nơi đó các lời khuyên khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, một sự tổng hợp độc đáo về đời sống và lời rao giảng của Chúa Giêsu. Các lời khuyên này được hệ thống hóa nhắm đến sự thánh hiến trọn vẹn con người cho Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống : tự do, tình cảm, của cải…

2. Các lời khuyên được đề nghị cho tất cả mọi người

"Mọi môn đệ Chúa Kitô đều được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm, vốn rất đa dạng"[4]. Các lời khuyên Phúc âm là khuôn mẫu đời sống Chúa Kitô. Khi thực hiện chúng, Chúa Kitô đã hoàn toàn tự hiến đời mình cho Chúa Cha. Chúng là một phần trọn vẹn đời sống của Người và làm nên yếu tố căn bản cho việc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Đây là cách mà Chúa Giêsu đạt được sự viên mãn của ân sủng mà Ngài đã ban cho Giáo hội.

Giáo hội có bổn phận sống theo Chúa Kitô. Điều này phải được chu toàn, do đó Giáo hội phải sống lời khuyên Phúc âm. Chúng ta có thể hiểu rằng các lời khuyên Phúc âm được truyền lại cho Giáo hội như một kho tàng của cuộc sống mà không thể bị chối từ, điều mà Giáo hội đã nhận được từ Thiên Chúa, và qua đó, dưới sự nâng đỡ của ơn thánh Chúa, cuộc sống ấy được giữ gìn mãi mãi. Đồng thời, chúng ta có thể hiểu rằng, cách nào đó, các lời khuyên được đề nghị cho mọi Kitô hữu trong cuộc sống, là một đòi hỏi không thể bội ước được.

3. Ơn gọi của mỗi người trong Giáo hội

Mặc dù tất cả các Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm, nhưng không cùng một cách như nhau, trái lại tùy theo ơn sủng của mỗi ơn gọi đặc biệt được ban họ. Người tín hữu trung thành sống các lời khuyên qua các nhân đức. Các tu sĩ sống các lời khuyên qua các lời khấn, tiêu biểu cho lối sống của Chúa Kitô trong Giáo hội, hiến dâng cuộc đời họ cho Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Các giáo sĩ được thánh hiến bằng Bí tích Truyền Chức Thánh, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để tiếp nối sứ vụ tông đồ qua dòng thời gian[5].              
Tóm lại, dưới cái nhìn thần học, ngày nay các lời khuyên Phúc âm được xem như là đặc sủng, tức là như một lời mời gọi chọn lựa trong đời sống của mỗi người tín hữu, do Thiên Chúa thực hiện qua ân sủng của Người.

4. Sống ba lời khuyên Phúc âm là hành vi của sự tự hiến

Ba lời khuyên như ấn tín cho việc hoàn toàn dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa, “Đấng đáng được yêu mến trên hết mọi sự, phụng sự và làm vinh danh Thiên Chúa với một danh nghĩa mới và đặc biệt”[6]. Chúng là ba phương cách thể hiện sự cam kết của bản thân với đời sống nên giống Chúa Kitô, mà các khía cạnh của nó ôm trọn đời người : sở hữu của cải, tình cảm, sự tự chủ của một người. Chúng thể hiện sự tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình, nâng đỡ con người một cách dứt khoát, để sống tận hiến cách cụ thể.

5. Đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô qua ba lời khuyên

Ba hình thức này của cuộc sống, thay vì từ bỏ, là chấp nhận cách cụ thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Các lời khuyên Phúc âm không được xem như là một sự phủ nhận những giá trị vốn có trong tính dục, trong những mong muốn chính đáng nơi việc sử dụng của cải vật chất và đưa ra quyết định độc lập cho riêng mình. Những khuynh hướng này, trong mức độ nào đó chúng đặt nền tảng trên tự nhiên, là tốt tự thân. Tất nhiên chúng đòi hỏi một sự khổ chế và liên tục hoán cải, như trong mọi ơn gọi của người Kitô hữu. Nhưng trước hết, nó không có nghĩa là từ bỏ một cái gì đó, nhưng mời gọi để làm cho mình luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa và cho anh chị em, giống như Chúa Kitô. Trong bối cảnh này “vâng phục là nguồn mạch đưa tới tự do đích thực, khiết tịnh diễn tả niềm thao thức của một con tim mà không một tình yêu hữu hạn nào thỏa mãn được, nghèo khó nuôi dưỡng cơn đói khát công lý mà Thiên Chúa đã hứa sẽ làm no đầy” (x. Mt 5, 6)[7].

6. Ba lời khuyên Phúc âm và nhân đức đối thần

Ba lời khuyên Phúc âm biểu lộ đời sống trọng tâm của người tín hữu qua ba nhân đức đối thần : tin, cậy, mến. Mỗi người tín hữu buộc phải sống trọn vẹn các nhân đức ấy trong cuộc sống. Nhưng chúng ta có thể nói đức mến được thể hiện trong sự độc thân, đức cậy trong sự nghèo khó, đức tin trong sự vâng phục. Khi bước vào trong chiều sâu của đời sống Kitô giáo, chúng ta có thể nói rằng qua việc sống trọn vẹn các nhân đức này chúng ta tiếp tục thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. 2Ph 1,4), Đấng là tình yêu (x. 1Ga 4, 8,16), đã đổ đầy trong mọi tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta. (x. Rm 5,5).

II. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

1. Khiết tịnh

Chúa Kitô đã kêu gọi mọi người sống khiết tịnh hoàn hảo tùy theo bậc sống cụ thể của mình. (x. Mt 5,27-30,48;18,8-9;1Cr 7).

Tất cả các linh mục, tu sĩ được mời gọi sống khiết tịnh qua đời sống độc thân, làm hoạn quan cho Nước Trời (x. Mt 19, 10-12; 1 Cor 7, 7; 9, 5-6), để đồng hình dạng tốt hơn với cách sống của Chúa Kitô lịch sử, sẵn sàng là một tông đồ và đồng thời làm cho ý nghĩa cánh chung và tiên tri được rõ ràng hơn.

- Ý nghĩa thần học :

Ý nghĩa nền tảng của đời sống độc thân vì nước trời được tìm thấy nơi Chúa Kitô và qua Người, trong Chúa Ba Ngôi chí thánh[8]. Đời sống độc thân diễn tả trọn vẹn, tình yêu tận hiến chính mình cho Thiên Chúa. Nó mô tả tính ưu việt của Thiên Chúa trên tất cả mọi sự và mọi loài, hơn cả những mối quan hệ mạnh mẽ nhất trong thế gian này, là gia đình. Đời sống độc thân phản chiếu lại tình yêu không bờ bến kết hiệp nơi Ba Ngôi Vị Thần Linh trong mầu nhiệm thẳm sâu của cuộc sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, người được thánh hiến, giữ đức khiết tịnh, làm nên tình yêu trinh khiết của mình đối với Chúa Kitô và tuyên xưng điều đó trước mặt thế gian giống như Con Một Thiên Chúa, Đấng ở với Cha (x. Ga 10,30; 14,11). Thân phận của người được thánh hiến do đó trở thành dấu chỉ tiên tri.

Người được thánh hiến duy trì đời sống độc thân cũng mang lợi ích và hiệu quả cho tình yêu phổ quát. Đời sống độc thân của chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến nhân đức đối thần là đức ái và làm cho chúng ta trở nên huynh đệ, không có gia đình “tự nhiên” của riêng mình, nhờ đó chúng ta có thể yêu mến người khác nhiều hơn. Mỗi một người riêng lẽ trở thành anh chị em với nhau trong một gia đình, và Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta. (x. Mt 6,9; 23,9).

Sống khiết tịnh có ý nghĩa tông đồ, bởi vì, “trong nền văn hóa hưởng thụ đang tháo gỡ mọi quy tắc đạo đức khách quan của tính dục, thường giản lược tính dục thành một thứ trò chơi và một món hàng tiêu thụ”[9]. Khiết tịnh được thánh hiến cách đặc biệt và được trình bày như đặc sủng của đời sống trung thành trong tình yêu. Hơn nữa, đời sống khiết tịnh của người nam nữ bày tỏ sự cân bằng, điều khiển chính mình, chủ động, tâm lý và tình cảm chín mùi. Khiết tịnh của người được thánh hiến nhìn từ quan điểm này như niềm vui và là kinh nghiệm giải phóng.

2. Khó nghèo

Đời sống khó nghèo theo tinh thần Phúc âm đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô coi Thiên Chúa và Nước Trời như sự giàu sang đích thực của tâm hồn con người (x. Mt 20,28). Điều này liên quan đến tinh thần sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi thứ, ngay cả mạng sống mình, chấp nhận tử đạo nếu cần thiết (x. Mt 6,19-21,24-34; 10,37-39; 16,24-26; 19,29).

Khó nghèo không chỉ liên quan đến đời sống của một cá nhân nhưng nó còn liên quan đến việc từ bỏ sử dụng những của cải vật chất, sống khổ chế vì lợi ích của sứ vụ tông đồ.

- Ý nghĩa thần học

Khó nghèo Tin mừng “tuyên xưng rằng Thiên Chúa là kho tàng đích thực duy nhất của con người. Sống theo gương Đức Kitô, Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em" (2Cor 8,9), sự nghèo khó trở thành một cách diễn tả việc Ba Ngôi Vị Thần Linh trao ban trọn vẹn cho nhau”[10]. Người được thánh hiến “bắt chước đời sống khó nghèo của Chúa Kitô, nhận biết Người như người Con, Đấng đón nhận mọi sự từ nơi Chúa Cha và dâng lại mọi sự cho Chúa Cha vì yêu thương”[11].

Sống nghèo khó để nên giống Chúa Kitô, hoàn toàn tự do, sẵn sàng và hiệp nhất. Đời sống khó nghèo nhấn mạnh đặc biệt đến nhân đức đối thần của đức cậy. Thiên Chúa là gia nghiệp của chúng ta, là anh em chúng ta trong thiên chức và giáo dân là người nghèo của chúng ta.

Khó nghèo Phúc âm có ý nghĩa tông đồ, bởi vì trong xã hội hôm nay được đánh dấu bởi tính tham lam của cải vật chất làm cho nhiều người “dững dưng với những nhu cầu và đau khổ của những người yếu đuối, cũng chẳng quan tâm gì đến việc làm quân bình những tài nguyên thiên nhiên”[12]. Khó nghèo phản đối quyết liệt việc tôn thờ tiền tài. Khó nghèo Phúc âm công bố rằng Thiên Chúa là kho tàng đích thực của tâm hồn con người, nó hướng đến những người nghèo khổ, yếu kém, bị áp bức và bị gạt ra khỏi lề cuộc sống, bằng một tình yêu được thể hiện qua cách sống noi gương Chúa Kitô, làm chứng cho Tin mừng trong một thế giới có nguy cơ bị bóp chết trong cơn lốc của sự phù du[13].

3. Vâng phục

Chúa Kitô đòi hỏi các môn đệ của Người vâng phục Thiên Chúa và những người đại diện của Chúa trong Giáo hội. Tương tự, Người đòi hỏi mỗi một người hãy phục tùng người khác (Eph 5,21) và phục vụ cho nhau (Mt 20,26; 23,11), hãy mang gánh nặng cho nhau (Gal 6,2), bởi vì tất cả mọi người là anh em với nhau (Mt 23,8) là chi thể trong một thân thể (x. Rm 12,5; 1Cor 12,25; Eph 4,25). Người truyền cho các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (Ga 13, 2-15) và hãy hiến dâng cuộc sống mình cho anh em, giống như Người (Ga 15,12-14).

- Ý nghĩa thần học :

Vâng phục, thực hiện việc bắt chước Chúa Kitô, vì lương thực của Người là làm theo Thánh ý Chúa Cha (x. Ga 4,43). Vâng phục thể hiện đặc tính phụ thuộc của người con, chứ không phải nô lệ. Người được thánh hiến, “kết hiệp sứ vụ vâng phục hiếu thảo bằng lễ hy sinh tự do, hy sinh ý riêng của mình, tuyên xưng Người là Đấng được yêu thương và yêu thương vô biên, là Đấng chỉ vui thỏa khi ở trong ý muốn của Chúa Cha.[14]

Chúng ta vâng phục Thiên Chúa, vâng phục giám mục, bề trên bằng chính đức tin của mình. Vì vâng phục nhấn mạnh đến nhân đức đối thần của đức tin. Chúng ta tin cậy vào Chúa và vào anh em, những người được Thiên Chúa trao gửi đến chúng ta. Thiên Chúa là Đấng mà nơi Người chúng ta hoàn toàn tin tưởng, và nói như thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê : “tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai” (x. 2Tm 1,12).

Vâng phục có một ý nghĩa tông đồ, bởi vì sứ vụ liên quan đến việc sai đi, và bởi vì vâng phục làm chứng cho tự do tuân thủ đối với ý Chúa Cha. “Đối diện với những quan niệm về tự do, muốn tách rời nét đặc trưng cơ bản nhất của con người ra khỏi tương quan với chân lý và quy tắc luân lý”[15], vâng phục được trình bày như đặc sủng của việc phục vụ, minh chứng rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn nhau, vì trong thánh ý Chúa chúng ta tìm thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người. Chúng ta có kinh nghiệm là những người con cùng một Cha trên trời và vì thế chúng ta là anh em với nhau (Mt 23,8-9). Đó là lý do cho việc chấp nhận lẫn nhau, kính trọng nhau và phục tùng nhau (Eph 5,21), vượt qua mọi hình thức bất kỳ của chủ nghĩa cá nhân, với tinh thần đức tin, Thiên Chúa hành động qua anh em mình, đặc biệt là những người đại diện cho Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, bất chấp những hạn chế của con người, những người đại diện cho Thiên Chúa[16].

Trên đây là cái nhìn tổng quát những suy tư thần học về ba lời khuyên Phúc âm được rút ra từ Truyền thống và Giáo huấn của Giáo hội. Tuy nhiên, để có được những định hướng chi tiết và rõ ràng cho đời sống và sứ vụ của linh mục, giám mục và việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm, ngoài các hiến chế, sắc lệnh của Công đồng Vatican II, hai Tông huấn Pastores Dabo Vobis và Pastores Gregis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đem lại cho hoạt động tông đồ của chúng ta một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ.

II. BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM THEO TÔNG HUẤN
PASTORES DABO VOBIS VÀ PASTORES GREGIS.

Hai tông huấn Pastores Dabo Vobis và Pastores Gregis liên quan đến sứ vụ và đời sống của linh mục, giám mục tạo nên một bước nhảy trong việc giải thích và hiện thực hóa các giá trị Tin mừng, cũng như các nhân đức của người linh mục Chúa Kitô, sự hài hòa giữa ơn gọi và sứ vụ của mình. Với việc vâng phục, nghèo khó và khiết tịnh, linh mục cam kết sống Tin mừng cách triệt để, một sự cam kết được thể hiện từ các nhân đức này và bởi những con người ấy, cần thiết cho chính đời sống tâm linh và sứ vụ của linh mục. Các nhân đức này phải được sống theo quan điểm của đức ái mục vụ. Chỉ có đức ái mới quyết định cho con người nên trọn hảo. Vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo là ba phương tiện quan trọng để đạt được điều đó. Tuy nhiên, nếu không thủ đắc được nhân đức của Chúa Kitô thì đức ái mục vụ sẽ trở nên trống rỗng trong nội tâm và nó sẽ trở thành các hoạt động thuần túy. Chính đức ái sẽ hỗ trợ cho sự cải thiện và phát triển, bằng cách vượt qua chủ nghĩa duy đạo đức và mở ra cho đời sống tinh thần của linh mục một chiều kích thần linh.

Cả hai Tông huấn Pastores Dabo Vobis và Pastores Gregis có công rất lớn trong việc làm rõ cách thức và mục đích mà qua đó linh mục được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm và ý nghĩa nguồn gốc phát xuất ra căn tính của linh mục.

Công đồng Vatican II, và đặc biệt hai Tông huấn trên đã phát họa ra một hướng đi cho các linh mục giáo phận, họ phải là người biết vâng lời, khiết tịnh, nghèo khó không chỉ để trở nên hoàn hảo hơn các tu sĩ, nhưng nhất là để thực thi việc tông đồ hiệu quả hơn. Đó là “nhân đức cần thiết nhất trong thừa tác vụ”[17] linh mục.
Vâng lời linh mục khác với vâng lời của đời sống thánh hiến vì đặc tính tông đồ của nó. Một trong những yếu tố đích thực của nhân đức này được phát họa từ Tông huấn vượt quá nhãn quan cá nhân, vì vâng lời linh mục “không phải là vâng lời của một cá nhân trong tương tác với quyền bính”. Vâng lời linh mục được lồng vào trong trách nhiệm và bổn phận, đó là “linh mục được kêu mời sống cộng tác hài hòa với giám mục, với vị kế nhiệm thánh Phêrô”. Quan điểm này đòi hỏi nhiều hơn quan điểm cá nhân, bởi vì nó đòi hỏi “một sự khổ chế đáng kể”, đòi hỏi một sự tự do khỏi những quan điểm cá nhân, làm gia tăng giá trị các ơn sủng, năng lực và thái độ của các linh mục vượt “ra ngoài mọi ghét ghen, ganh đua, đố kỵ”, và khả năng thể hiện nội tâm, nhờ đó linh mục định hướng và chọn lựa trách nhiệm. Đặc tính khác của vâng lời linh mục là “tính mục vụ”, theo nghĩa sẵn sàng cho Giáo hội.

Lời khuyên Phúc âm về nhân đức khiết tịnh trong đời sống độc thân linh mục, phải được sống theo động cơ thần học đã được Giáo hội xác nhận trong hàng thế kỷ cho đến hôm nay. Luật của Giáo hội về độc thân được trói buộc qua việc phong chức và bị trói buộc trong mối tương quan vợ chồng của Chúa Kitô với Giáo hội, qua đó linh mục tìm thấy sức mạnh thúc đẩy trong ơn thánh và nhờ đó linh mục tự hiến cho Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Người trong lời cầu nguyện, trong các bí tích, trong sự đòi buộc khổ chế, mỗi ngày canh tân khả năng dâng hiến, không tự khép mình nhưng trái lại mở tâm hồn cho đức ái mục vụ. Độc thân linh mục còn là bằng chứng trỗi vượt của Thiên Chúa trong đời sống linh mục, được phản chiếu trên chính mầu nhiệm Chúa Kitô.

Linh mục khi sống khiết tịnh là hiến tặng một bằng chứng mạnh mẽ, bằng cách chống lại đời sống “tôn thờ bản năng xác thịt”, như đã được trình bày trong tông huấn Pastores Gregis, và hiến tặng một sự điều trị tâm linh cho thế giới hôm nay. Viễn tượng cánh chung của đời sống độc thân, thúc đẩy niềm hy vọng cho linh mục và công bố cho thế giới về một “trời mới đất mới”. Khiết tịnh không có nghĩa là tách ra khỏi lịch sử tự nhiên, nhưng với sự chọn lựa và cam kết của mình sẽ đem lại ý nghĩa cho lịch sử và hỗ trợ cho chính chúng ta trong niềm vui và ân sủng, nó giải phóng chúng ta khỏi tính ích kỷ cá nhân, tìm thấy được gương mặt của mình và sự thỏa mãn của mình. Thực vậy, nếu độc thân linh mục không được sống cách khiêm nhường trong tình bạn với Chúa Kitô và trong tình huynh đệ với Giáo hội là Mẹ và hôn phu, thì nó sẽ có nguy cơ dẫn đến tự mãn, có thể trở nên kiêu ngạo đến độ khinh miệt người khác.

Việc chọn lựa sống nghèo và kinh nghiệm sống từ linh mục có một ý nghĩa tinh thần, được thể hiện trong sự tự do khỏi những lợi ích kinh tế và thể hiện trong sự thần phục Thiên Chúa, là điều thiện hảo nhất. Ý nghĩa “mục vụ” bao hàm trong sự sẵn lòng mà qua đó linh mục sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào cần và hữu ích. Tính mục vụ của lời khuyên này thúc đẩy linh mục sống gần gũi với những người yếu đuối, thiệt thòi nhất, để phục vụ cho công bằng, sống nhạy cảm và có khả năng hướng đến các vấn đề kinh tế của cuộc sống và có khả năng thúc đẩy sự chọn lựa ưu tiên cho người nghèo, sau cùng là cho lợi ích chung.

Được tạo nên cho Chúa Kitô cách nội tâm, đời sống vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh tràn đầy Ba Ngôi Thiên Chúa, linh mục được kết hiệp với Thiên Chúa bằng cách trở nên người thực hiện sự hiệp nhất giữa anh em với nhau.

(xem tiếp phần hai)





[1] http://www.bridgeportvocations.org/your-vocation/discerning-the-priesthood/diocesan-or-religious-priesthood/)
[2] Thư của ĐTC Benêđictô XVI nhân ngày cử hành Năm Thánh Linh Mục (x. http://www.hdgmvietnam.org/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc/469.120.6.aspx
[3] x. CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium số 43
[4] Sách GLCG số 915; LG số 43
[5] x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 31.
[6] CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium số 44
[7] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 36.
[8] x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 17-21
[9] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Vita Consecrata, số 88.
[10] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 21
[11] Sđd, số 16
[12] Sđd, số 89
[13] Sđd, số 105
[14] Sđd, số 16
[15] Sđd, số 91
[16] Sđd, số 92
[17]CĐ VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 15
Mới hơn Cũ hơn