III.
THÁNH HIẾN QUA VIỆC THỤ PHONG LINH MỤC
1. Mối tương quan giữa những lời khấn và lời khuyên đối
với linh mục giáo phận là gì?
Như đã nói ở trên, mỗi một
lời khấn thánh hóa mỗi phương diện khác nhau của con người cho Thiên Chúa, và
giữa các lời thề ấy toàn thể con người được thánh hiến cho Thiên Chúa.
Việc thụ phong linh mục
thánh hiến toàn bộ con người cho Thiên Chúa, và đồng thời đưa đến bổn phận phải
sống các lời khuyên trong thiên chức linh mục cách đặc biệt. Đối với linh mục
giáo phận, không phải các lời khấn buộc họ phải có bổn phận sống các lời khuyên
Phúc âm, nhưng điều trói buộc họ là thánh chức linh mục, và đối với các linh
mục, nó không chỉ thích hợp mà còn cần thiết nữa.
Giữa việc phong chức linh
mục và việc thánh hiến qua lời khấn, có thể nói rằng việc phong chức linh mục
là kiểu thánh hiến khác : vì nó không thuộc khía cạnh của cá nhân con người,
không thêm phần cứu rỗi cho chính người ấy, cũng không thêm phần nối kết chính
họ với Thiên Chúa. Sách giáo lý, phần dẫn nhập Bí tích Truyền chức và Hôn nhân,
nói về chúng như là “bí tích để phục vụ cho Giáo hội”. Chúng “trực tiếp hướng
đến ơn cứu rỗi người khác; nếu có góp phần cho ơn cứu độ cá nhân, thì thông qua
việc phục vụ cho người khác, họ làm điều ấy cho mình. “Hai bí tích này vừa trao
ban một sứ mệnh đặc biệt trong Hội thánh, vừa xây dựng cộng đoàn dân Thiên
Chúa”[1].
2. Đâu là sự thánh hiến của thiên chức linh mục?
Đó là việc thánh hiến “nhân danh Chúa Kitô
để nuôi dưỡng Giáo hội bằng lời nói và ân sủng của Thiên Chúa”[2], tiếp tục sứ mạng mà Chúa Kitô đã trao
phó cho 12 Tông đồ. Thực vậy nó liên quan đến sứ mạng của con người hơn là đến
khía cạnh cụ thể của nhân loại. Nhưng như một hữu thể tính được phong ban bí
tích, nó thay đổi toàn bộ khuynh hướng của người được thánh hiến.
Như đã trình bày, Công Đồng Vatican II và
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thay đổi thứ tự truyền thống của ba lời khấn
bằng cách dùng hình ảnh hai người phối ngẫu gắn bó với Thiên Chúa như nền tảng
của đời sống thánh hiến. Đức Gioan Phaolô II thực hiện điều tương tự với việc
xem linh mục như phu quân, bằng cách liên kết vai trò của linh mục như là Đầu
và là Chủ chăn với vai trò như một phu quân của linh mục. “Các linh mục, nhờ
vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua Bí tích Truyền Chức thánh, được sai đi bởi
Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với
Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh
của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới” [3].
Thực vậy,
sự thánh hiến của linh mục xảy ra nhờ việc lãnh nhận thánh chức chứ không phải
nhờ bởi lời khấn hay lời hứa. Việc thánh hiến của linh mục là dành cho sứ mạng
của mình, cho điều mà ngài được sai đến để thực hiện. Và việc thánh hiến này định
hình con người linh mục với Chúa Kitô, không phải theo cách chung chung, nhưng theo
cách thức đặc biệt : như Thủ lãnh và Chủ chăn, vì thế linh mục có thể hành động trong
Chúa Kitô là đầu[4], “in persona Christi
Capitis”.
Đó là đức ái mục mục mà Chúa
Kitô là Đầu và Chủ chăn của Giáo hội, và “cốt lõi của đức ái mục vụ
là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo
Hội”[5]. Tình yêu tự hiến là trung
tâm và tình yêu này thành toàn trong tình yêu vợ chồng, đặc biệt là tình yêu vợ
chồng của Chúa Kitô đối với Giáo hội. Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô là
Đầu. Cũng như Eva được rút ra từ thân thể của Ađam để từ đó trở thành vị hôn
thê của ông, cũng vậy, “Giáo Hội còn là Hiền Thê, như một Evà mới được dựng nên
từ cạnh sườn bị đâm thủng của Đấng Cứu chuộc trên Thập Giá”[6]. Vì thế tình yêu vợ chồng
là nguồn gốc đứng sau mối quan hệ của Chúa Kitô với Giáo hội như là Đầu, và mối
quan tâm mục vụ dành cho Giáo hội như người chủ chăn.
- Tương tự với các linh mục
Linh mục được mời gọi trở
nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, phu quân của Giáo hội. Qua việc
đồng hình dạng với Chúa Kitô, là Đầu và Mục tử, linh mục đứng trong mối tương
quan vợ chồng này bằng cách quan tâm đến toàn thể cộng đoàn. Vì linh mục đại
diện cho Chúa Kitô, là Đầu, Chủ chăn và là hiền thê của Giáo hội. Bởi vậy,
trong đời sống thiêng liêng của mình, linh mục được mời gọi bằng cuộc sống sao
chép tình yêu của Đức Kitô Phu Quân đối với Giáo Hội Hiền Thê[7].
Thế nhưng động lực cho tình
yêu của linh mục phần lớn không dành cho Giáo hội, nhưng dành cho Chúa Kitô.
Chúa Giêsu ủy thác cho thánh Phêrô chăm sóc đoàn chiên của Ngài sau ba lần làm
chứng về tình yêu, thậm chí về một tình yêu trổi vượt : “Ngài nói với Phêrô lần
thứ ba “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Ta không?” - Phêrô trả lời : “Lạy
Chúa, Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rõ con yêu Chúa”. Đức Giêsu nói với ông:
‘Hãy chăn dắt các chiên của Ta” (x. Ga 21,17). Đây là giao ước của linh mục với
Chúa Kitô là căn nguyên giao ước của Người với Giáo hội, một giao ước trên bình
diện hữu thể và là giao ước tình yêu. Khi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa
Kitô, linh mục thực sự là biểu tượng sống động của Chúa Kitô Phu quân[8].
3. Chúng ta có thể nói gì về các lời khuyên Phúc Âm?
Linh mục không được thánh hiến theo những
cách này. Tuy nhiên việc thánh hiến mà linh mục nhận được qua việc truyền chức
áp đặt một trách nhiệm đặc thù trên linh mục để sống các lời khuyên Phúc âm như
phương tiện hầu đạt được đức ái vợ chồng, tương xứng với đặc điểm hôn nhân mà
linh mục đã nhận lãnh trong ngày thụ phong. Tất cả các Kitô hữu buộc phải sống
các lời khuyên Phúc âm như phương tiện để tăng trưởng đức ái của họ, nhưng các
linh mục đón nhận bổn phận này theo con đường thuộc về mình là : tăng trưởng
đức ái vợ chồng đối với Giáo hội. Chúa Giêsu Kitô là mẫu mực và là nguồn mạch
các nhân đức khiết tịnh, nghèo khó, và vâng phục mà linh mục được mời gọi sống
như là biểu hiện tình yêu mục vụ đối với anh chị em của mình[9].
Linh mục giáo phận được mời
gọi sống các lời khuyên Phúc âm theo cách riêng của mình. Vì thế, việc vâng
phục của linh mục không phải là vâng phục theo kiểu của một tu sĩ, cũng không
phải theo kiểu tài tử. Vâng phục là để sống cho động cơ và cách cư xử thuộc về
linh mục, được biểu lộ ở cấp độ mục vụ, qua thái độ lắng nghe những nhu cầu và
đòi hỏi của dân chúng, những người được trao phó cho mình. Tương tự với đức
khiết tịnh và khó nghèo – linh mục được mời gọi sống cho những điều này bởi vì
ngài là linh mục, và cách thức ngài hành động phải là cách thức của một linh
mục chứ không phải là một tu sĩ.
Khiết tịnh linh mục kết nối rất rõ ràng
với tình yêu vợ chồng dành cho Giáo Hội: “Giáo Hội
xét như là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách
hoàn toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo
Hội. Đời sống độc thân linh mục lúc ấy sẽ là sự trao hiến chính
mình trong và với Đức Kitô cho Giáo Hội Ngài và
sẽ biểu lộ công việc phục vụ mà linh mục thực thi cho Giáo Hội trong Chúa Kitô
và với Chúa Kitô”[10].
Cũng như các tu sĩ, đời sống độc thân của
linh mục giáo phận “cho phép ngài khắn khít với Thiên Chúa một cách dễ dàng
hơn, bằng một trái tim không san sẻ, và có thể hiến mình phục vụ Thiên Chúa và
nhân loại cách tự do hơn”[11]. Nhưng động cơ thúc đẩy thì khác : hơn
bao giờ hết nó được bén rễ từ một linh đạo tông đồ chứ không phải từ một linh
đạo trực tiếp hướng đến việc thánh hóa chính mình.
Tương tự như vậy, các linh mục giáo phận
được mời gọi sống nghèo. Nghèo như là một phần của lòng yêu mến Thiên Chúa bằng
một trái tim trọn vẹn, một trái tim không bị hủy diệt bởi lòng mến của cải thế
gian, một trái tim có thể yêu mến Giáo Hội qua việc từ bỏ chính mình[12], mà đặc tính phu phụ thuộc về linh mục
đòi hỏi.
Lời mời gọi sống khó nghèo
không chỉ được tìm thấy trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, hay các Giáo huấn khác của Giáo hội,
Giáo luật điều 282#1 đã khẳng định : “Các giáo sĩ nên sống đời giản dị, và xa
tránh tất cả những gì có vẻ phù hoa”. Cũng vậy, Kim Chỉ
Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 67[13] kêu gọi
sống đời sống khó nghèo dứt khoát hơn.
Khi liên
kết đời sống khó nghèo với việc chăm sóc mục vụ, Kim Chỉ Nam nói rõ : “một linh
mục hầu như không thể vừa là đầy tớ và vừa là thừa tác viên cho anh chị em mình
nếu linh mục đó quá bận tâm với tiện nghi và sức khỏe của mình”. Thánh bộ nhắc
nhở rằng linh mục được kêu mời noi theo gương mẫu của Chúa Ktiô, Đấng đã trở
nên nghèo khó vì chúng ta. Dùng hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Dân Số
(18,20), Thánh bộ nói rằng, linh mục có Chúa làm gia nghiệp đời mình. Trích dẫn
giáo luật và sắc lệnh Presbyterorum
Ordinis của Công Đồng Vatican II, Kim
Chỉ Nam kết luận: “mặc dù ngài không sống đức khó
nghèo do lời khấn công khai, linh mục vẫn phải sống một cuộc sống giản dị và xa
lánh hết những gì là phù phiếm[14], tự nguyện sống khó nghèo nên giống Chúa Kitô. Trong mọi lãnh vực (nhà ở,
phương tiện đi lại, nghỉ ngơi….) “linh mục phải loại trừ mọi kiểu cách xa hoa,
có thể làm các ngài xa rời người nghèo […] đừng làm cho nơi mình cư ngụ trở
thành quá xa cách, để bất cứ ai, dù nghèo hèn đến đâu, cũng không cảm thấy ái
ngại khi đến gặp các ngài”[15].
Nhiều giáo dân đặt vấn đề
nghiêm túc đối với các linh mục của mình, nghĩa là liệu có thể nhìn thấy điều
này được thực hiện trong hàng ngũ các linh mục ở giáo phận mình đang sống hay
không. Gisbert Greshake[16] trong tác phẩm “Ý Nghĩa
Chức Linh Mục Kitô Giáo”[17] đã giải thích về điều này
khi nói về sự cần thiết đối với các lời khuyên khác nhau để sống hiệp nhất. Hầu
hết các linh mục công giáo đều vui vẻ chấp nhận sống độc thân, nhưng khi đã từ
bỏ hạnh phúc gia đình lớn lao, và hạnh phúc này dễ dàng được thay thế bằng sự
quyến luyến của cải thế gian và những sở hữu khác.
IV. HỨA VÂNG PHỤC
Như đã trình bày ở trên, qua việc phong
chức buộc linh mục phải sống các lời khuyên Phúc âm. Tuy nhiên, có một nghĩa vụ
thêm vào để các lời khuyên làm phát sinh hành động của người được chịu chức đó
là : Lời hứa vâng phục của linh mục, bởi vì lời hứa này được áp dụng cho nhiều
thứ, nó bao hàm cả việc hứa sống các lời khuyên Phúc âm.
Vâng phục có vai trò kết hợp
trong cuộc sống của người tu sĩ, bởi vì theo lời khấn vâng phục của tu sĩ, tất
cả mọi hành động làm nên một phần nhân đức vâng phục của người ấy : bởi họ dâng
hiến ý muốn của mình trong sự vâng phục, người ấy tự hiến cho Thiên Chúa. Hai
cộng đoàn dòng Đa minh và Biển đức dùng chỉ một lời khấn[18], đó là vâng phục, và với
đời sống khó nghèo và khiết tịnh, ngầm hiểu rằng chúng được gồm tóm trong các
quy tắc buộc họ phải đồng ý vâng theo. Tương tự như vậy, lời hứa vâng phục của
linh mục bao hàm cả việc vâng phục trong toàn bộ cuộc sống mình. Tất cả các
hành vi tương lai của linh mục, đặc biệt, tất cả các hành vi tự hiến điều dính
líu trong việc sống các lời khuyên Phúc âm của linh mục. Sự vâng phục đối với
người phối ngẫu của mình là Giáo hội là nét đặc trưng duy nhất của đời sống
linh mục.
Kim Chỉ Nam lưu ý rằng vâng
phục là đặc tính riêng biệt của linh mục. Hiến tế của Chúa Kitô trên thập giá
là hiến tế đầu tiên về đức vâng phục của Người, dâng hiến ý muốn của mình cho
Chúa Cha, cho nên có thể nói “sự vâng phục đối với Chúa Cha nằm ở trung tâm
chức tư tế của Chúa Kitô”[19], vì thế, vâng phục cũng là
trung tâm của đời sống linh mục. Đặc biệt hơn nữa, lời hứa vâng phục với đấng
bản quyền bao gồm việc vâng phục với giáo huấn của Giáo hội, giáo luật và luật
chữ đỏ phụng vụ[20]. Vì vậy, vâng phục bao gồm
việc sống các lời khuyên theo cách mà giáo huấn của Giáo hội chỉ dạy.
Khi không được yểm trợ bởi
các điều kiện và ân sủng tương tự đi kèm theo lời hứa sống các lời khuyên Phúc
Âm, xem ra linh mục giáo phận có những loại ân sủng liên quan giúp linh mục
sống các lời khuyên, bởi vì lời hứa vâng phục của linh mục được coi như hướng
đến việc tự hiến mình cho cách sống này, một cách sống bao hàm đời sống khó
nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
V. ĐẶC SỦNG
Trở lại vấn đề động cơ của
linh mục trong việc sống các lời khuyên, theo ý niệm họ sống cho người khác chứ
không vì mục đích thánh thiện của chính mình. Để làm được việc đó cần phải nại
đến một thứ đặc sủng được ban cho linh mục, mà chức linh mục là một đặc sủng.
Đặc sủng được ban cho một
người, không vì lợi ích của người đó, nhưng vì ích lợi của Giáo hội[21]. Một người có thể được
thánh hiến khi sử dụng đặc sủng của mình, nhưng không phải trong ý nghĩa trực
tiếp, chỉ thứ cấp mà thôi. Tương tự, hồng ân thánh chức ban cho con người không
hướng trực tiếp đến việc thánh hiến chính người đó. Giống mọi Kitô hữu, ơn gọi
đặc biệt của linh mục là phương tiện nên thánh, và vì thế việc sống với thiên
chức linh mục là phương tiện nên thánh của mình. Đang khi lời khấn của tu sĩ
được xem như hướng đến sự nên thánh của người ấy bằng cách thánh hiến mọi
phương diện đời sống của người ấy cho Thiên Chúa, việc thánh hiến linh mục qua
bí tích truyền chức không nhằm để thánh hóa chính mình nhưng là để phục vụ Giáo
hội và cứu độ thế giới. Việc thánh hiến làm cho linh mục nên đồng hình đồng
dạng trong mối tương quan duy nhất với Chúa Kitô và hiền thê của Chúa Kitô là
Giáo hội, điều này thiết đặt cho linh mục bổn phận duy nhất để tiếp tục sống
đặc tính phu phụ đã được ghi dấu trong tâm hồn mình. Đặc tính ấy được xem như
phẩm chất của linh mục, xứng hợp với đặc tính bí tích hôn nhân đã ghi dấu khi
được phong chức. Điều này có nghĩa là linh mục phải có bổn phận đặc biệt là
tiếp tục sống cho các lời khuyên Phúc âm, trong khi không khấn giữ những điều
ấy trong cuộc sống. Các linh mục giáo phận thiếu những ơn đặc biệt đến từ việc
khấn giữ các lời khuyên Phúc âm, và họ cũng không có sự nâng đỡ này trong cuộc
sống của họ. Nhưng với các ơn theo bậc sống đến từ Bí tích Truyền Chức Thánh,
linh mục có được đặc sủng riêng biệt, trợ giúp trong bổn phận của mình để sống
các lời khuyên Phúc âm, vì lợi ích của Giáo hội, Hiền thê Chúa Kitô. Cho nên, ý
niệm đặc sủng giúp phân biệt động cơ khác nhau mà linh mục giáo phận và các tu
sĩ sống các lời khuyên phúc âm.
VI. CHIÊM NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng động
lực thúc đẩy đầu tiên đối với đời sống độc thân là chiêm niệm. Đời sống độc
thân linh mục giúp đạt được sự cân bằng giữa hoạt động và chiêm niệm[22].
Về phương diện chiêm niệm và
hoạt động, thánh Tôma dạy rằng chiêm niệm tốt hơn hành động. Trong số những lý
do mà thánh nhân nêu ra cho việc này đó là chiêm niệm lôi cuốn những gì tốt
nhất nơi con người, cụ thể là trí tuệ của mình, và bởi vì chiêm niệm, trong phúc kiến, là toàn
thể đích điểm của đời sống kitô hữu (ST II-II q.180 a.4).
Độc thân linh mục liên quan
với chiêm niệm, bởi vì nó là phương tiện để linh mục lớn lên trong đức ái và có
khả năng tốt hơn để sống đức ái vợ chồng của mình đối với Giáo hội. Đức Gioan
Phaolô II nói : dưới cái nhìn Kitô giáo, khó nghèo luôn được xem như một bậc
sống giúp theo Chúa Kitô cách dễ dàng hơn trong đời sống chiêm niệm, cầu nguyện
và rao giảng Tin mừng.
Nếu đời sống độc thân là
hình thức của khó nghèo, thì đời sống độc thân linh mục làm cho ngài có khả
năng tốt hơn để chiêm niệm, và bước theo tình yêu vợ chồng đối với Giáo hội.
Nghĩa là trong đời sống độc thân, ngay cả linh mục giáo phận, phải trung thành
với Thiên Chúa với một con tim không san sẻ, xem như đó là động lực đầu tiên có
thể làm cho linh mục yêu thương và chiêm niệm. Nhưng trong bối cảnh của việc
truyền chức linh mục, tình yêu độc thân này đối với Thiên Chúa dẫn linh mục đến
việc yêu mến Giáo hội của Chúa Kitô với một tình yêu hôn nhân và mục vụ - một
tình yêu mà chỉ có tự do để trao ban, bởi vì linh mục sống độc thân. Như vậy,
việc chiêm niệm và tình yêu hôn nhân có thể được xem là những lý do hài hòa kêu
gọi linh mục sống độc thân.
KẾT LUẬN
Tất cả các Kitô hữu được mời
gọi sống các lời khuyên Phúc âm trong tinh thần, cho dù họ đang sống trong bậc
sống nào.
Những người được thánh hiến
là được thánh hiến bằng những lời tuyên khấn và lời hứa rằng họ sẽ thực hiện.
Mỗi lời thề hứa thánh hiến một khía cạnh khác nhau của con người cho Thiên
Chúa, vì thế, cả ba lời khuyên tập hợp nên việc thánh hiến toàn thể con người
cho Thiên Chúa, cùng một cách như thế, người ấy trở nên “hoàn toàn” được hiến
dâng cho Thiên Chúa, sống các lời khuyên trong “thực chất” chứ không phải trong
“tinh thần”.
Linh mục được thánh hiến cho
Thiên Chúa qua việc truyền chức. Việc thánh hiến này là bản chất của đặc sủng,
qua đó người lãnh nhận thánh chức linh mục hướng đến việc nên thánh và cứu độ
người khác, chứ không phải trực tiếp thánh hóa chính bản thân mình. Việc thánh
hiến này mang lại một bổn phận đặc biệt là sống các lời khuyên Phúc âm. Trong
thánh chức ấy, linh mục lớn lên trong tình yêu vợ chồng dành cho Giáo hội của
Chúa Kitô. Đây không phải là bổn phận sống các lời khuyên Phúc âm trong “thực
chất” theo cách mà các tu sĩ đã làm. Tuy nhiên, đó là một bổn phận với ngụ ý
đời sống của họ để bổ sung cho những gì mà người giáo dân thường đòi hỏi.
Giống như các tu sĩ, linh
mục giáo phận được mời gọi sống độc thân và vâng phục : các tu sĩ vâng phục tùy
theo vai trò và chức phận của họ; các linh mục giáo phận vâng phục tùy theo
luật của Giáo hội. Đối với đời sống khó nghèo, hiện nay vẫn chưa có một hình
thức xác định rõ ràng bởi luật lệ của Giáo hội dành cho các linh mục giáo phận.
Nhưng bất kể tinh thần của ba lời khuyên này thế nào, tinh thần hãm mình khổ
chế, phải được sống bởi mọi linh mục, vì linh mục là người tế lễ trên bàn thờ
và cuộc sống của ngài cũng sẽ được thánh hiến như một hy lễ dâng lên Thiên
Chúa.
THƯ MỤC THAM KHẢO
·
Công Đồng Vatican II,
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 2012
·
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nhiều dịch giả, 1997
·
Kim Chỉ Nam Cho Thừa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục, Bộ Giáo Sĩ, 1994 và 2013
·
Tông Huấn Vita Consecrata, ĐTC Gioan Phaolô II, Linh mục Phan Tấn Thành, Op chuyển
ngữ.
·
Tông Huấn
Pastores Dabo Vobis, ĐTC Gioan Phaolô II, 1992
·
Bộ Giáo
Luật 1983, nhiều dịch giả.
[1] Sách GLCG, số
1534
[2] CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 11,b; Sách GLCG, số
1534
[3] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 12b
[4] Sách GLCG, số
1548
[5] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Pastore Dabo Vobis, số 23,b
[6] Sđd, số 22c
[7] Sđd, số 22c
[8] Sđd, số 13
[9] Sđd, số 30g
[10] Sđd, số 29d
[11] THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Kim Chỉ Nam – Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, số 58
[12] x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 22d
[13] Linh mục có Chúa làm phần gia nghiệp.
Biết rằng sứ mạng của ngài cũng như của giáo hội diễn ra giữa lòng trần gian và
của cải cần thiết cho sự phát triển cá nhân của con người. Tuy nhiên ngài phải
sử dụng của cải này với ý thức trách nhiệm, có chừng mực với ý ngay và siêu
thoát, là những đặc điểm của người canh giữ kho tàng mình trên trời và biết
rằng mọi sự phải đem ra sử dụng để xây dựng nước Thiên Chúa.
[14] BỘ GIÁO LUẬT, điều 282#1
[15]CĐ VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 17e.
[16] GISBERT GRESHAKE, Thần học gia Công giáo
và giáo sư Thần Học Tín Lý, người Đức
[17] GISBERT GRESHAKE, The
Meaning of Christian Priesthood, trans. Peadar MacSeumais S.J.
(Westminster, Md.: Christian Classics, 1989) p.131ff
[18] - “Đã từ lâu, nhiều đan
sĩ đã tuyên hứa ba điều, nhưng không hẳn là ba lời khuyên Phúc âm giống như
giáo luật hiện nay. Chúng ta thử lấy một thí dụ từ các bản luật đan tu hồi thế
kỷ IV-V bên Tây phương thì đủ hiểu. Ai giữ luật thánh Augustinô thì cam kết ba
điều: độc thân, khó nghèo,
sống cộng đoàn. Các tu sĩ dòng Biển đức thì cũng tuyên hứa ba điều:
định cư, hoán cải cuộc sống, vâng phục. Chúng ta thấy rằng ba điều này của luật
Biển đức thì rộng hơn ba lời khuyên Phúc âm rất nhiều, bởi vì lời hứa “hoán cải” coi như là vô giới hạn, bó buộc phải
cải thiện liên lỉ theo tinh thần Phúc âm. Một cách tương tự như vậy, lời hứa “vâng lời” cũng mang tầm mức rất phổ quát, bởi vì
đan sĩ hứa tuân giữ bản luật đặt ra rất nhiều nghĩa vụ tu đức (từ việc đọc kinh cầu nguyện, ăn
chay kiêng thịt, cho đến thực tập đức khiêm nhường), chưa kể đến việc vâng
phục bản luật sống là chính viện phụ. Vì thế mà không lạ gì các tu sĩ dòng Đa
Minh chỉ hứa một điều, đó là vâng giữ Hiến pháp, xét vì tất cả các lời khuyên đều
được viết trong đó rồi.” (Phan
Tấn Thành, Op, Tại Sao Gọi Là "Lời Khuyên Phúc Âm"? -
http://catechesis.net/)
[19] BỘ GIÁO SĨ, Kim Chỉ Nam cho
thừa tác vụ và đời sống linh mục, số 61
[20] Sđd, số 61-66.
[21] Sách GLCG số 799 : “Dù
là phi thường, hay đơn giản và khiêm tốn, các đặc sủng là những ân huệ của Chúa
Thánh Thần, trực tiếp hay gián tiếp đều nhằm lợi ích cho Hội Thánh, để xây dựng
Hội Thánh, mưu ích cho loài người và đáp ứng những nhu cầu của thế giới”. (xem
thêm số 2203 nói riêng về ân sủng)
[22] ĐTC PHAOLÔ VI, Tông thư Sacerdotalis
Caelibatus, số 70