Phép giảng tám ngày - Ngài thứ tám

PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY

Cho kẻ muốn chịu phép rửa tội
mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời




Ngày thứ tám 

MƯỜI BẬC THANG LÊN THIÊN ĐÀNG 


Phán xét chung 

Dù mà khi chết, tức thì có chịu bởi Đức Chúa trời phán xét, mà linh hồn kẻ chẳng có mắc tội vạ gì thoắt chốc có vào nơi vui vẻ đời đời, mà lại kẻ mắc tội gì trọng khi phải chết thoắt chốc linh hồn nó chịu đày xuống trong địa ngục, phải hình lửa khốn nạn đời đời vậy, song le ngày sau, đến bao giờ có một Đức Chúa trời hay, mà thật có đến ngày cả và loài người ta có chịu phán xét chung. Và Đức Chúa trời đã truyền cho thánh ngày xưa, và Đức Chúa Iesu đã phán trước nhiều lần mình có chịu ngày sau chức phán xét ấy. 

Lại có nhiều lẽ vì sao Đức Chúa trời đã định phán xét chung làm vậy. Thứ nhất thì nên cho danh Đức Chúa trời cả sáng, nhất là chí linh chí công Đức Chúa trời sửa mọi sự cho phải lẽ, mà tỏ ra. Vì chưng có nhiều lần, kẻ lành thì phải khó khăn, khốn nạn, cùng chịu người ta chê và làm khốn, cũng có phải đau nặng và tai vạ khác, mà lại kẻ dữ có khi thì giàu có, mà ngừơi ta kính, chịu vui ở thế này cùng nhiều sự lành. Kẻ chẳng hay việc Đức Chúa trời trị là sâu nhiệm, và chẳng thông sự kín Đức Chúa trời, khi thấy làm vậy,nhiều lần thì hãi. Au là cũng chẳng thiếu gì kẻ chẳng nhớ sự trí mình yếu sức thể nào mà kiêu ngạo có dám trách đức trị[1] vô cùng Đức Chúa trời chí linh chí công. Vậy cho cả phép và trị Đức Chúa trời sửa loài người ta, mà có lẽ cả, tỏ ra, hễ là việc các người ta, khi phải phán xét chung trước mặt thiên hạ thì tỏ ra hết; mà vậy thì hay biết hết tỏ tường Đức Chúa trời có sửa mọi sự chí linh chí công, mà phải lẽ, bằng việc ai nấy có làm thì có chịu. Vì chưng một bên kẻ dữ vì tội mình thì đáng chịu gia hình địa ngục đời đời, mà lại bên khác chẳng có đứa nào, dẫu rất dữ, mà chẳng có làm khi nào việc tiểu gì lành. Sự lành tiểu ấy thì chẳng có nơi chịu thưởng trong địa ngục, vì trong ấy chẳng có sự gì vui sướng. Vì vậy cho kẻo có sự gì lành mà chẳng có thưởng, sửa trị rất cao Chúa trời, sự lành tiểu ít kẻ dữ làm, thì thưởng ở thế này mà cho nó sự vui thế gian. Mà lại vì kẻ lành, dẫu nên thánh, có khi thì phạm tội mọn, cho nên Đức Chúa trời phạt ở thế này mà làm cho chịu khốn khó tai nạn: vậy thì qua đời sạch hơn, và càng chóng vào được chịu phúc vui vẻ trên thiên đàng, cùng khi chịu sự khốn khó thì thêm phúc đức nhiều, mà ngày sau chịu được càng vui vẻ đời đời. Sự này, cùng sự khác nhiều, cho tỏ ra cùng các hết Đức Chúa trời hay biết vô cùng có định thể nào, khi phán xét chung, thì mở ra hết việc người ta vậy lẽ sâu nhiệm Đức Chúa trời sửa trị thiên hạ, thì tỏ ra hết trước mặt cả và người ta. 

Thứ hai, vì Đức Chúa Iesu có hạ mình xuống cho đến chết trên cây Crux, nhân vì sự ấy, Đức Chúa Deus Cha thì đem lên chức cao, phong làm Chúa trên hết mọi sự cũng cho chức phán xét, vì Đức Chúa Iesu có chịu người ta phán xét mình cực trái lẽ, lại được chức cả phán xét cả và loài người ta, mà hết thay thảy, hay là dầu lòng kính, hay là dẫu chẳng khừng, thì cũng dái. 

Thứ ba, nhiều lần có người ta, dẫu hàm phạm tội, nếu thấy kẻ khác có xem, hay là giấu tội lâu chẳng được, bởi hổ ngươi làm vậy mà tránh tội. Nhân vì sự ấy Đức Chúa trời có định ngày phán xét chung, mà nói ra cùng người ta ngày sau có phán xét chung ấy, cho kẻ chẳng tránh tội vì phải kính dái Đức Chúa trời, ít là cới tội[2] vì dái xấu hổ, khi đã hay các tội mình, dẫu kín, ngày sau thì tỏ ra trước mặt cả và thiên hạ. Cũng có nhiều lẽ khác nữa, cho nên ngày sau có phán xét chung: bây giờ có kể bấy nhiêu thì thôi. 

Những dấu hiệu báo trước

Mà khi nào có đến ngày phán xét chung ấy, Đức Chúa trời chẳng cho chúng tôi hay, như cũng chẳng cho hay thế giới này được bao lâu. Song le đã thật, khi hết thế này, thì có phán xét chung. Vì chưng đã thật ngày sau thế này có hết, ít là sự sinh, sự tự như hằng có bây giờ. Vì chưng người ta thì chết hết, mà sinh đẻ thì thôi, như trong Kinh Đức Chúa trời phán nhiều lần. Vì có lời Đức Chúa trời nói hứa, mà khiến ta trông trời mới và đất mới, như ông thánh Pedro bảo. Mà sự ấy ta chẳng khá kiếm lẽ khác, có một ý Đức Chúa trời làm cho thế giới còn bấy lâu mà có giữ đấy. Song le ngày nào có đến phán xét, Đức Chúa trời chẳng cho người ta hay, cho càng giữ phép, vì chẳng hay còn bao lâu mà phải đến trước mặt Đức Chúa trời phán xét. Có lời Đức Chúa Iesu phán rằng: “Bay hãy ở cho sẵn, vì bay chẳng hay Con Người có đến giờ nào”. Song le cũng có sự Đức Chúa Iesu đã phán có đến trước, khi chưa có nhiều ngày phán xét: cả và thiên hạ thì chịu đạo thánh Đức Chúa trời, như bây giờ sẽ sẽ[3] có chịu. Cũng có phán khi ấy có thấy nhiều dấu trước, phán rằng: “Dân này đánh dân khác, nước này phá nước kia, lại có tật bệnh cùng dại hạn, và động địa nơi này, nơi nọ; mà bấy nhiêu sự ấy là dầu hết sự khốn, đến khi khỏi ngày sự khốn ấy, thoắt chốc mặt trời thì tối ra, và mặt trăng chẳng có sáng ra, lại cái sao bởi trời thì té xuống, mà phép trên trời thì động. Cho nên khi ấy mọi loài người ta khóc lóc”. Đoạn mọi sự ấy, lửa bởi trời té xuống, thì đốt ra hết cả và mặt đất, mà chẳng còn có để ai sống nữa. 

Mọi người đều sống lại 

Khi ấy hễ là người ta, từ ông Ađam cho đến hết thế, có sống khi nào, hết thay thảy ai nấy được xác minh, mà sống lại cùng một ngày. Sự này Đức Chúa trời lấy làm dễ bằng đánh thức người khi ngủ, vì có phép vô cùng. Thật vì phán xét chung này Đức Chúa trời có làm, nhất mà tỏ ra sự mình sửa trị chí công, thì Đức Chúa trời phảai làm xác sống lại, vì cũng có phán xét việc xác làm. Vì chưng có phép phán xét này cho ai nấy thì ra lẽ nào[4], có làm việc gì khi còn ở trong xác, hay là việc lành, hay là việc dữ vậy. Vì vậy xác kẻ dữ, khi sống lại, thì ra xấu xa, hôi hám, và mọi bề cực khốn nạn; mà xác kẻ lành thì ra rất tốt, có hình rất khéo, rất lành, mọi bề thì được trọn như hình đến trọn tuổi Đức Chúa Iesu. Vậy thì có phép mỏng[5], cho nên chẳng có mắc đựơc xác nào mà chẳng vào đâu đâu mặc lòng. Lại được rất sáng cũng bằng mặt trời, song le sáng ấy chẳng có chói lói con mắt, mà lại làm cho sung sướng; cũng chẳng có chịu được khốn gì, cho nên chẳng lọ là chết chẳng được nữa, mà lại chịu một chút gì khó cũng chẳng được. Lại đi đâu mặc lòng, mà chóng đến, bằng linh thiêng. 

Chúa Iesu lại xuống thế phán xét 

Khi các hết người ta sống lại rồi, trên trời thì coi thấy rất thánh Crux, Đức Chúa Iesu đã chịu bêu đấy vì chúng tôi. Đức Chúa trời cho thấy Crux làm vậy, và cho dân Iudeo hay đã lo toan quấy quá thể náo, khi đã đóng đanh Đức Chúa Iesu là Chúa cực trọng trên cây ấy, mà bởi cây cho nên biết tội mình cực trọng, lại cho kẻ có tội hết xấu hổ, khi thấy bởi tội mình mà chẳng chịu công sự chuộc tội bởi cây Crux, mà lại cho kẻ lành sướng hết mừng lòng, khi thấy cây này là cội rễ mọi sự lành. Chốc ấy Đức Chúa Iesu, có quanh quẻ mình các đức thành thiên thần cùng các người thánh, cũng có rất thánh Đức Mẹ đồng thân đến cùng, lại rất trọng vọng[6], người ta chưa thấy sự trọng làm vậy, mà lại lòng người ta lo chẳng đến. 

Phán xét chung này phải làm ở nơi thung[7] tên là Iosaphat, ở gần thành Ierusalem, là nơi Đức Chúa Iesu có chịu phán xét rất trái lẽ mà chịu đóng đanh trên cây Crux. Vì vậy khi ấy sẽ ngồi trên chốn ấy, ở nơi mây, có tòa cực trọng cực sáng. Cũng có đầy tớ cả phán xét cùng Đức Chúa Iesu, vì có lời hứa phán rằng: “Tao nói thật cùng bay, vì bay có theo Tao, khi Tao ngồi ở toà cả phán xét, bay cũng ngồi ở mười hai tòa, mà phán xét mười hai dòng nước Israel”. Cũng có người thành khác ngồi phán xét, khi đã hết lòng theo nhân đức, bắt chước Chúa Iesu. Khi ấy Đức Chúa Iesu cả phán xét, cùng sai đức thánh thiên thên nhiều đi khắp thiên hạ, mà hộp lại người ta bốn bể, tức thì đến trước mặt Đức Chúa Iesu phán xét, lại chia ra làm hai dòng, mà kẻ lành thì cho ở bên tay mặt Đức Chúa Iesu phán xét, lại bắt kẻ dữ ở bên tay trái. 

Khi ấy có phép Đức Chúa trời làm cho ai nấ, chẳng lọ là thấy đí gì đí gì mình làm khi đang sống ở thế này, hay là lành hay là dữ, mà thấy như thể trước mặt vậy, lại cho xem mọi việc kẻ khác như thể có chép trên trán ai nấy vậy. Mà kẻ lành, vì đã làm sự lành, đã giũ trọn đạo Đức Chúa trời, có mừng thể nào! Mà lại kẻ dữ, vì đã làm sự lỗi, có lo buồn sầu não làm sao! Vì chẳng khứng giữ phép đạo thánh Đức Chúa trời thì ăn năn, mà nào có ích gì! Có xấu hổ chừng nào, khi thấy tội lỗi mình mở ra trước mặt muôn và người ta! 

Đến khi các người ta cùng thiên thần đã thấy tỏ tường mọi việc lành dữ đoạn, Đức Chúa Iesu thì định cho kẻ lành sự vui vẻ thanh nhàn, bằng phúc đức mình lớn nhiều vậy, mà lại cho kẻ dữ, cũng định hình chịu bao nhiêu bằng tội vạ nó phạm nhiều, trọng vậy. Mà mọi sự định ấy thậm phải lẽ và công bằng, cho nên hết thảy có xem chẳng có gì toàn[8] được hơn. Thôi đoạn, thì Đức Chúa Iesu trở mặt rất vui, rất tốt cùng kẻ lành ở tay mặt, mà nói ra điều rất lành, phán rằng: “Đức Cha Tao khiến bay được mọi sự lành, hãy đến cùng Tao mà chịu lấy phúc trị nước đã dọn cho bay từ tạo thiên lập địa!” Đoạn thì trở mặt rất trọng, mắng cho kẻ dữ ở tay trái, mà nói điều trách xỉ vả rất công bằng, phán ra: “Bay những kẻ được[9] mọi sự dữ, hãy đi cho khỏi mặt Tao, mà sa xuống trong lửa vô cùng đã sắm sửa cho ma quỷ và cho thiên thần làm bạn nó!” 

Lên thiên đàng hay xuống địa ngục 

Đến khi Đức Chúa Iesu cả phán xét nói lời phán làm vậy, mà chẳng có ai cãi được, đoạn thì thoắt chốc đức thánh thiên thần cầm cây rất thánh Crux có lên trên trời, cũng bằng phép[10] khi trước bởi trời mà xuống. Các đức thánh thiên thần mừng bội phần, lo chẳng đến, mà theo vậy. lại Đức Chúa Iesu, với Đức Mẹ đồng thân và người thánh kể chẳng xiết, như đánh được mọi giặc đoạn, thì trọng vọng rất mực, như phép Đức Chúa trời, vào nhà thiên đàng. Khi ấy đất thì mở ra làm lỗ rộng thay, cho đến dưới địa ngục, mà kẻphải hình đời đời thì ép xuống. Ví bằng có ai chẳng khứng, thì ma quỷ đuổi đi; cũng có khi ngửa mặt lên mà xem kẻ lành rất vui vẻ làm vậy, song le sáng láng chừng ấy mà chọc con mắt nó. Đến khi lo lại, kẻ khác có lên chịu vui vẻ đời đời, mà mình phải sa dưới địa ngục chịu hình phạm tộ, cũng nghỉ[11] xưa khỏi được, nếu chịu vâng lời Đức Chúa trời răn mà theo sự phải lẽ, thì khóc lóc than thở, cùng phàn nàn mà giận trách mình, cho nên lo buồn như xé ruột ra. Khi đã giục mà vào hết lỗ lớn đất thì lớp lại, mà những thằng dữ ấy thì cầm ở trong tù rạc, khốn nạn làm vậy đời đời, cùng hằng chịu hình lửa vô cùng với ma quỷ và với những thiên thần dữ làm bạn nó, mà chẳng có trông được ra bao giờ cho đến đời đời vậy. 

Song le Đức Chúa Iesu rất hay biết, rất công bằng và có rất phép phán xét, làm Vua trên mọi vua và Chúa trên mọi chúa, khi trở trên thiên đàng, có đức thánh thiên thần cùng các thánh với, trước mặt Đức Cha có phép vô cùng đem các người thánh, mà ai nấy có xác sống lại với, tức thì có lệnh Đức Chúa trời, là Đức Cha, ai nấy bằng phúc mình, và bằng Đức Chúa Iesu công bằng đã phán xét khi trước mà định đã thậm phải, thì cho mỗi một ngồi ở tòa bằng công mình, và phong chức có dấu[12], lại cho vui vẻ ai nấy bằng phúc làm, chí linh chí công. Song le chung hết người thánh có chịu nhiều sự vui vẻ đầy và trong linh hồn và trong xác, cho nên chẳng còn có muốn được đí gì nữa, mà chịu hằng thanh nhàn làm vậy đời đời, chẳng còn liều hay là dái sốt khi nào mất được sự hằng vui vẻ thanh nhàn ấy, đời đời vậy. lại mỗi một người thánh, dẫu dưới hết, có trọng và giàu chừng ấy, cho nên dù mà hết vua chúa thiên hạ hộp lại làm một, mà dùng hết của mình làm một tòa cho trọng, cũng chẳng đến tòa trọng và tốt lành người thánh nào dưới hết các thánh. 

Mười điều răn 

Thầy[13] vâng lệnh Đức Chúa Iesu, là vua chúa trên hết mọi vua chúa, mà đến đây đem tin lành cho bay, mà thay vì Đức Chúa Iesu, mời hay cho được chịu vui vẻ cả ấy cùng các thánh, và đem đàng cho, ví bằng có toan noi giữ đàng ấy, và khỏi được hình khốn nạn vô cùng, lo chẳng đến, những hình địa ngục kẻ dữ thì phải chịu cùng ma quỷ đời đời, mà lại chịu được vui vẻ thanh nhàn vô cùng đời đời, lời nói chẳng hết. Vì chưng trong hai sự này, thật mỗi một tta, ai là ai[14] chẳng khỏi được một, vì có lời Đức Chúa trời, thật thà vô cùng, chẳng sai, có phán làm vậy. Bây giờ khi Đức Chúa trời là Chúa cả nhân lành vô cùng, cũng cho rỗi, thì hãy chọn lấy đàng lành và ngay cho kịp, khi hãy còn sống ở thế này, mà ta chẳng biết đựơc mai ta còn sống hay là chăng. Vì vậy nếu có khôn, thì cầm lấy, ta dẫn cho thang thiêng Đức Chúa trời, mà lên thang này, thật có đến trên trời nơi vui vẻ vô cùng, vì có lời Đức Chúa trời phán hứa vậy, mà khỏi hình khốn vô cùng ở trong địa ngục. Ai trong bay có chịu được hình ở trong lửa đời đời vậy ru? 

Đàng này rất phẳng là đạo thánh Đức Chúa trời, dạy ông Ađam từ đầu hết, cùng cả và loài người ta, loày hay biết suy lẽ. Mà Đức Chúa trời dạy ta có hai chân đi đàng này, là tránh sự lỗi, mà làm sự lành. Cho nên ta thấy sự gì phải lẽ, thì ta theo; mà ta xem việc gì trái lẽ, thì ta tránh. Song le dẫu sáng này bởi mặt Đức Chúa trời mà in vào trong lòng ta, bởi ta có tội sáng này đã hầu tối mà hư đi lắm. Nhân vì sự ấy Đức Chúa trời rất nhân lành,từ sinh loài người qua hai nghìn dư năm, có chịu lấy hai lá đá mà ghi lại đạo thánh mình, có hết trong mười điều răn, mà trao cho ông Moyse, làm tôi mình, lại khiến ông Moyse dạy dân Iudeo, khi ấy là dân Đức Chúa trời. Song le vì dân ấy những yêu xác, mà đến sau chẳng còn có giữ đạo Đức Chúa trời cho nên, thật Đức Chúa trời có sai Đức Con mình, là Đức Chúa Iesu, mà dạy đạo thánh lại cho chúng tôi gratia, là thêm sức cho chúng tôi giữ được đạo. Vì chưng Đức Chúa Iesu chẳng phải đến mà phá đạo, thật đến mà giữ trọn, lại làm cho chúng tôi bắt chước nhân đức Người, mà giữ đạo cho trọn. Ay vậy mà có mười sự Đức Chúa trời răn, ta noi giữ vậy thật là thang chính mà cho ta lên được thiên đàng chịu vui vẻ đời đời. Mà Đức Chúa trời có cho lời răn trong hai lá đá: trong một lá đá có dạy ta thờ phượng Đức Chúa trời thế nào, và trong lòng, và miệng nói, và mình làm. Vì vậy lá đá thứ nhất có ba lời răn mà thôi. 

Lời răn thứ nhất 

Lời răn thứ nhất thì khiến ta thờ một Đức Chúa trời. Trứơc hết thì phải tin kính đấy, vì chưng ai đến cùng Đức Chúa trời thì phải tin, mà ai chẳng có lòng tin thì đẹp lòng Đức Chúa trời chẳng được. Vì vậy ta phải tin mọi lời Đức Chúa trời truyền ra và trao cho Ecclesia Catholica, là các người ở trong đạo làm một. Vì chưng Đức Chúa trời là thật nhất, mà chẳng có ai dối được đấy, vì đã biết hết, dù mà chưa có; lại Đức Chúa trời dối ai chẳng được, vì là rất lành. Mà lại chẳng nên tin giáo đối, vì chưng giáo ấy những là chước ma quỷ bầy đặt mà hại người ta. 

Bởi lòng tin, thì mới ra lòng kính dái Đức Chúa trời trên hết mọi sự, vì đã tin Đức Chúa trời bắt được và linh hồn và xác trong lửa địa ngục đời đời. Vì chưng dẫu ta nên kính dái vua chúa và quan quyền trị nước thay, như lời ít nữa ta giảng ra, song le sự Đức Chúa trời ta phải kính dái trên hết mọi người, như Chúa cả trên hết mọi sự, trên hết mọi người, vì chưng mọi sự lành chúng tôi, và đời này có cùng, và đời sau chẳng cùng, bởi Đức Chúa trời mà có. Ai kính dái Đức Chúa trời làm vậy, chẳng còn có lẽ gì mà dái bụt, hay là ma quỷ ở trong nó, vì chưng mọi vật ấy, nếu Đức Chúa trời chẳng khiến, nó chẳng làm chi được ta, dẫu một cái tóc ta, lấy chẳng được. 

Vì vậy ta cũng phải trông cậy Đức Chúa trời trên hết mọi sự, vì chưng có phép vô cùng, mà lại làm Đức Cha rất lành chúng tôi, có yêu chúng tôi chừng ấy, cho đến trao Con mình chịu chết mà chữa chúng tôi và chuộc tội cho chúng tôi. Vì chưng nếu chẳng tha Đức Con mình, mà trao vì chúng tôi, khi chúng tôi hãy còn oan gia cùng, huống lọ khi đã kết nghĩa cùng, khỏi lòng giận Đức Chúa trời vì Đức Con. Vì vậy đầu hết ta phải trông cậy Đức Chúa trời nhân lành thật có tha tội cho chúng tôi, nếu có dùng việc Đức Chúa trời khiến dùng, lại dùng thể nào Đức Chúa trời khiến dùng thì mới được tha tội. Mà lại khi đã chịu tha tội, ta phải trông cậy Đức Chúa trời nhân lành giúp sức cho ta giữ trọn cho đến hết hơi. Mà vậy ta vào được nơi vui vẻ đời đời, thật bởi ta có công, song le vì Đức Chúa trời cho ta gratia, là giúp sức, và trước mở đàng cho ta, và sau theo ta, lại ở cùng liên giúp ta, thì mới có công: mà ta phải trông gratia ấy bởi Đức Chúa trời nhân lành vậy. Ta lại cậy Đức Chúa trời cho ta sự thế này: sống lâu, sức khoẻ cùng các kì sự ta dùng, mà giúp cho ta đời sau được hằng sống vui vẻ vậy. 

Song le trong lời răn này nhất là khiến ta kính mến thật Đức Chúa trời, hết lòng, trên hết mọi sự. Vì chưng Đức Chúa trời lòng lành vô cùng tự nhiên đã đáng mọi sự kính mến, mà lại vì Đức Chúa trời đã mến ta trước, mà cho ta nhiều sự, kể chẳng xiết, dẫu ta chẳng đáng. Vì vậy ta phải yêu mến Đức Chúa trời rất lành rất cả, hơn ta, hơn cha mẹ, hơn con cái, hơn linh hồn cho ta sống, cho nên ta chịu mất hết, mà ta chẳng chịu mất nghĩa cùng Đức Chúa trời, lại ta chịu mọi sự cho ta khỏi mất lòng Đức Chúa trời. 

Mà dẫu phép thứ nhất thờ phượng Đức Chúa trời ở trong lòng và trong linh hồn, (vì chưng Đức Chúa trời là tính thiêng linh cả, chẳng hay cùng, có lời Đức Chúa Iesu là Thầy thật phán rằng: “Ai kính lạy Đức Chúa trời, thì phải kính lạy trong linh hồn mà thật thà”). Song le, vì Đức Chúa trời cũng sinh ra xác ta, cũng phải thờ phượng Đức Chúa trời bề ngoài, vậy thì ta phải dựng đền thánh và nơi thờ[15], để mà kính lạy thờ phượng Đức Chúa trời. 

Có kẻ thì rằng: thờ phượng Đức Chúa trời trên hết mọi sự thì phải rảy, mà dưới Đức Chúa trời sao chẳng nên thờ bụt? Như thể dẫu nước nào có thờ vua chúa hay là quan cả nào trên hết, song le bề dưới cũng kính quan quyền, mà vua chúa chẳng những là chẳng có cầm việc ấy, mà lại có khiến làm vậy. Bởi lẽ này, cho nên ta hay ta phải thờ Đức Chúa trời mà lấy phép thứ nhất, gọi là latria, là phép thờ một Đức Chúa trời; song le, dưới Đức Chúa trời, cũng nên thờ các thánh, lấy phép hạ mà thờ, gọi là dulia, vì các thánh có nghĩa cùng Đức Chúa trời mà cầu cho ta chịu ơn Đức Chúa trời, nhất là Đức Mẹ đồng thân, ta phải thờ dưới Đức Chúa trời, mà phép thờ Người, gọi là hyperdulia, là phép thờ trên các thánh. Vì chưng Đức Chúa Bà có dùng rất thánh phép cầu cho chúng tôi với ông thánh khác, thì ta phải trông nhiều ơn bởi lòng lành vô cùng Đức Chúa trời: ví bằng coi đến tội vạ chúng tôi, thì thậm đáng mất ơn ấy, song le vì có công các thánh có nghĩa lắm cùng Đức Chúa trời, lòng nhân lành, thì đừng giận, lại thương mà cho ta nhiều ơn. 

Song le vì bụt thật là ma quỷ, Đức Chúa trời ghét nó vì có nghịch cùng Đức Chúa trời (vì chưng hễ là bụt người ta thờ, là ma quỷ hay là điều dối ma quỷ bày đặt, mà chữa cho Đức Chúa trời làm lành cùng chúng tôi thì chẳng được, mà lại giục Đức Chúa trời công bằng phạt chúng tôi) vì vậy ta phải bỏ hết mọi sự dối trá ấy mới thờ Đức Chúa trời được cho nên, cũng được Đức Chúa trời làm lành cùng chúng tôi. như thể vì bằng có ai thờ thằng nguỵ nào nghịch cùng vua chúa, thật là mất lòng và nghịch cùng vua chúa mà chớ. Vì vậy ta phải bỏ hết mọi phép giả dối, mà thờ phượng Đức Chúa trời hết lòng, hết linh hồn, hết sức. Ay là lời thứ nhất Đức Chúa trời răn. 

Lời răn thứ hai 

Thứ hai lời răn, thì khiến giữ miệng, kẻo lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời, chớ lấy tên Đức Chúa trời mà thề quấy quá vậy. Vì cho kẻo phạm tội khi lấy tên hay là sự khác về Đức Chúa trời, thì phải giữ ba sự: một là sự thật, hai là sự công bằng, ba là sự cần. Vì chưng hễ là thề dối hằng có tội trọng, vì gọi Đức Chúa trời làm chứng sự dối, dù mà sự vặt, thật là lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời lắm. Vì chưng sự ấy bằng làm Đức Chúa trời gian, hay là yêu sự gian, thật là lỗi cùng Đức Chúa trời lắm. Nếu có thề sự gì chẳng phải công bằng, mà sự trọng, thì cũng có tội trọng; ví bằng mà sự hèn nhiều lần chẳng phải tội trọng. Ví bằng chẳng có sự cần gì, song le sự thật và sự công bằng quen, nên tội hèn mà chớ. Song le lời khấn, nói hứa cùng Đức Chúa trời thì phải giữ thật, kẻo mất lòng lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời. Vì vậy đừng làm lời khấn thì hơn chẳng đền lời đã khấn cũng Đức Chúa trời. Mà có nói lời hứa cùng ai, song le có thêm lời thề cho bền, thì cũng vậy, vì chưng chẳng đều lời hứa ấy là vô phép cùng Đức Chúa trời. Song le có lấy tên bụt hay là tên ma quỷ mà thề, những thằng nguỵ cùng Đức Chúa trời, thì có tội trọng. Mà có lời khấn cùng chúng nó, hay là nói lời hứa gì thờ chúng nó, thì cũng có tội lớn. Vì vậy ta phải dỗ kẻ vô đạo, vì bằng nó lấy tên bụt nó mà thề, vì nó dái bụt, thì phải cho ta lấy tên Đức Chúa trời thật mà thề, vì chưng ta đã hay sống chết ở một Đức Chúa trời là Chúa cả. Song le dẫu[16] ta phải chịu hại thiết đí gì, hay là về mất của, hay là về mất sống mình, mà chẳng chịu thề cho nên kẻ khác ngờ ta khấn bụt, hay là ai ngờ ta lấy nó như làm Chúa, mà sống chết ở tay nó. 

Lại ta phải chịu mọi sự khốn khó, dẫu đến chịu chết, mà chớ chịu chối Đức Chúa trời, hay là đạo thánh đấy, dẫu những miệng nói. Vì chưng Đức Chúa Iesu cứu chúng tôi đã phán vậy rằng: “Ai xưng Tao trước mặt người ta, thì Tao cũng xưng nó trước mặt Đức Cha Tao; mà ai chối Tao trước mặt người ta, thì Tao cũng chối nó trước mặt thiên thần Đức Chúa trời”. 

Lời răn thứ ba 

Sau thì răn thứ ba, hay là răn sau hết ở lá đá trước, về việc kính Đức Chúa trời, thì khiến ta giữ ngày lễ lạy, là ngày ấy ta gọi lễ lạy vậy, thì ta phải dùng việc thờ phượng Đức Chúa trời cho nên. Vì chưng tự nhiên có sáng ở lòng ta, dạy ta có ngày lễ lạy, mà giữ, cho ngày ấy tanhớ mà cám ơn lớn và nhiều Đức Chúa trời lòng lành vô cùng đã phó cho ta. Vì vậy hễ là ngày ấy ta chẳng nên làm việc nhọc, gọi là việc tôi tá, là việc về xác này hay nát, cho làm vậy ta có rỗi lo việc về thờ phượng Đức Chúa trời, và lo việc về linh hồn ta, hết lòng hết sức. Vì vậy thánh Ecclesia, hay là kẻ cả trong Ecclesia mà coi sóc cho ta, đã có định ngày lễ lạy ấy, nhất là ngày Dominh, thật là ngày Đức Chúa trời. Vì chưng ta có cho sáu ngày lo sự xác, và làm việc nọ việc kia về xác (dẫu trong sáu ngày cũng phải lấy một chút mà làm việc Đức Chúa trời, lo sự linh hồn, ít là sớm mai, khi chưa có ra làm việc xác, và ban tối khi bởi làm việc ấy mà về) lại phải lẽ lấy một ngày, ta gọi là ngày Đức Chúa trời, thật là ta cho Đức Chúa trời riêng, mà ngày ấy ta thờ Đức Chúa trời hơn ngày khác, mà ta nhớ cám ơn Đức Chúa trời và ngợi khen đấy, vì ta đã chịu ơn nhiều bởi lòng lành Đức Chúa trời, mà việc cám ơn làm vậy thì thậm phải. Như thể Đức Chúa trời hóa ra mọi sự có sáu ngày mà làm nên mọi loài, đến ngày thứ bảy thi có nghỉ mà chẳng có làm việc mới, ta cũng vậy, sáu ngày thì ta làm việc vàn, mà chớ chịu ở dưng phong lưu là căn nguyên mọi sự dữ, song le đến ngày thứ bảy (mà nói hơn, thì đến ngày thứ nhất, vì chưng ngày thứ bảy đời xưa lễ lạy, thì đã đổi mà lấy ngày thứ nhất, kẻ có đạo bây giờ thì có giữ làm lễ lạy, vì chưng ngày thứ nhất Đức Chúa Iesu đã sống lại) ta dừng việc về xác, mà làm việc thờ Đức Chúa trời và việc về linh hồn ta cho lành, hết lòng hết sức. Mà ngày khác cũng là lễ lạy trong lịch, vì có lời răn thánh Ecclesia, cũng phải giữ như vậy. 

Lá đá thứ hai đạo thánh Đức Chúa trời, dạy ta cách nào ở cùng các anh em, là các người ta, có bảy lời răn, mà gộp lại trong mọi điều răn khiến ta yêu người như ta vậy. Cho nên sự gì ta muốn người ta làm cho ta, lại ta làm cho ngừơi ta vậy; cùng mày chẳng khứng ai làm điều gì cho mày, lại mày chớ làm điều ấy cho ai. Vì chưng ta phải muốn lành cho người, mà yêu người, chẳng những là có lời nói, lại có việc làm, mà thật thà; và chẳng khá làm hại người thể nào, dầu về mình người, dầu về danh, dầu về của cải người, mà sự ấy hay là mình làm, hay là miệng nói, hay là trong lòng muốn, dẫu chẳng ra bề ngoài, mà mọi sự có răn trong bẩy lời răn ở lá đá thứ hai. 

Lời răn thứ bốn 

Ay vậy mà lời răn thứ bốn trong kinh Đức Chúa trời, gọi là răn thứ nhất trong Lời hứa, thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên. Mà hễ là kẻ bề trên, cũng gọi là cha mẹ. Lại sự thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu mến, kính dái, chịu luỵ, giúp cho mọi sự. Yêu mến là chớt ghét, chớ muốn sự dữ cho người, lại ước mọi sự lành cho, mà cầu vậy cùng Đức Chúa trời. Kính dái là ở khiêm nhường cùng, mà chớ mất lòng người, dầu mình làm, dầu miệng nói. Chịu luỵ là vâng phép người mọi việc khíên ta phải lẽ, huống lọ khi khiến ta sự về ích cho ta lành đời đời. Mà giúp cho mọi sự người có dùng thể nào, thì phải giúp, nhất là khi đã già cả, hay là phải đau nặng. Ví bằng người còn thiếu sự về linh hồn cho lành, (như thể khi cha mẹ chưa biết Đức Chúa trời, hay là có lạc đàng về cho được lành đời đời), khi ấy càng phải giúp hết sức, càng việc về linh hồn cho lành thì trong hờn việc về xác. 

Giới này cũng khiến sự thảo kính và chịu luỵ vua chúa, quan quyền, thầy, cùng các người bề trên, bằng chức ai nấy đòi. Mà chẳng vâng phép bấy nhiêu chức ấy, khi khiến việc gì phải lẽ, hay là lỗi nghĩa đấy, thì có tội phạm đạo Đức Chúa trời. Song le trở lòng làm nguỵ cùng vua chúa mình, thật là có tội cực trọng, lỗi đạo thánh lắm. Mà lẽ khiến ta vâng phép kẻ bề trên, chẳng những vì phải trả ơn Người, khi có lo coi sóc cho ta lành, mà lại cho ta, khi nghe lời Người, thì vâng phép Đức Chúa trời, là cội rễ mọi quan trị, mọi phép bề trên bởi đấy mà ra. vì vậy thì phải vâng phép ấy hết lòng vì Đức Chúa trời, mà bởi đấy ta trông chịu phúc sự chịu luỵ, lại dài, khi chẳng có vâng phép bề trên, Đức Chúa trời có bắt tội. 

Ay vậy mà ta phải hay, ta nên vâng lời cha mẹ và phép các kẻ bề trên, sự phải lẽ. Song le sự gì lỗi đạo Đức Chúa trời thật là chẳng phải lẽ. Vì chưng trước khi ta phải vâng lệnh Đức Chúa trời, sau thì vâng phép người ta. Nhất là vì Đức Chúa trời rất bề trên va rất trọng. Hai là vì ta phải dái phạt bởi Đức Chúa trời hơn phạt bởi người ta: vì chưng người ta phạt được cất của và phạt chết, song le Đức Chúa trời và phạt được bấy nhiêu sự ấy, mà lại phạt được bắt chịu hình đời đời, chết vô cùng. Ba là vì dẫu ta chịu ơn nhiều bởi cha mẹ cùng bởi kẻ bề trên, song le ơn ta đã chịu bởi Đức Chúa trời, là Cha cả, cũng là Chúa cả trên hết mọi chúa, thì khác xa, vì chưng hễ là ơn nào ta chịu bởi kẻ khác, thật là bởi Đức Chúa trời ra hết, mà Đức Chúa trời chẳng cho, thì ai nấy cho đí gì chẳng được. Mà lại ơn Đức Chúa trời cho ta nhiều kể chẳng xiết, cùng rất lớn vô cùng, nhất là khi Đức Chúa trời rất cả rất trọng, vì chúng tôi (chẳng có người nào làm sự ấy) có chịu xỉ vả, chịu nạn chừng ấy, cho nên đổ hết máu thánh mình ra, có giá vô cùng, mà chịu chết vì chúng tôi. 

Lại phải hay, như giới này khiến con cái và kẻ bề dưới vâng lời cha mẹ và kẻ bề trên, lại cũng khiến cha mẹ và kẻ bề trên lo mà giữ con cái và kẻ bề dưới, ai nấy bằng chức mình coi sóc mà cấm sự lỗi: kẻ làm quan thì lo cho dân hòa thuận mà ở cho ngay cùng nhau; cha mẹ thì coi sóc cho con cái học sự lành, nhất là sự về cho được lành đời đời. Sau nữa giới này gộp lại các người ta, khiến ta làm cùng hết, và giúp hết khi có thiếu gì, hay là về linh hồn, hay là về xác người, như thể ta muốn cho người giúp ta. Mà đến ngày Đức Chúa Iesu phán xét chung sẽ hỏi ta riêng sự ấy lẽ nào: vì chưng ta làm sự gì lành cho anh em trong đạo[17], Đức Chúa Iesu sẽ trả công ấy cho, như thể làm cho Đức Chúa Iesu, mà sự gì ta chẳng khứng giúp, khi anh em ấy phải thiếu, Đức Chúa Iesu thì phạt, như chối làm cho Đức Chúa Iesu. 

Lời răn thứ năm 

Giới thứ năm: “Chớ giết!”, thì cấm giết người, mà chẳng có cấm giết muông chim. Vì chưng Đức Chúa trời hóa ra loài khác sống cùng sự khác có xác vì người ta, mà cho người ta dùng loài muông chim khi có việc, vì vậy giết loài ấy chẳng có tội gì (vì bằng giống ấy có chủ, mà chủ nó chẳng cho giết, khi ấy giết nó, thì lỗi giới thứ bảy, ít nữa sẽ giảng giới ấy). Mà lại Đức Chúa trời chẳng phải sinh người vì người, thật sinh người vì Đức Chúa trời, mà cho người làm hình tượng thiêng Đức Chúa trời. Vì vậy giết người là tội cực trọng, lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời. Như thể ví bằng có ai giết đầy tớ quan, thì lỗi nghĩa quan ấy lắm. Lại giới này răn chớ có chặt tay người, chớ có đánh đòn người, cũng chớ làm hại thể nào mình xác người. Vì chưng bởi người làm tôi Đức Chúa trời, thì chẳng khá giết người, cũng vì sự ấy có cấm chớ làm hại mình người thể náo. Song le giới này chẳng có cấm vua chúa, quan quyền, có phép sửa kẻ có lỗi mà phạt bằng tội nó. Vì chưng khi mọi phép thật bởi Đức Chúa trời mà ra, ai có phép ngay[18] ấy bởi Đức Chúa trời cũng có phép mà sửa ngay kẻ có lỗi, cho đến giết nó, và cho kẻo tội nó càng lâu càng nhiều, và khi phạt nó, kẻ khác thì dái phạm tội mà khốn vậy. 

Lời răn thứ sáu 

Giới thứ sáu thì cấm mọi việc tà dâm, khi chẳng phải việc ngay trong một vợ một chồng[19]. Vì chưng khi Đức Chúa trời định việc ấy, cho người ta được con cái, mà nuôi nấng cho nên, việc ấy thì khá[20] khi có dùng cho được con cái chính mà thôi. Việc nào tà dâm làm ra con cái nào chẳng được, thì càng lỗi. Mà sự giao cảm cho ngay[21], thì phải có một vợ một chồng, cho nên khi bạn còn sống, ai là ai chẳng nên lấy bạn khác. Vì vậy đạo thánh Đức Chúa trời cấm, dầu lấy nhiều vợ dầu rẫy vợ mình, vì chưng đầu hết chẳng có thói ấy, như miệng thánh Đức Chúa Iesu đã dạy chúng tôi. Vì chưng Đức Chúa trời đầu hết trao cho ông Ađam có một bà Eva làm bạn, mà ông Ađam ở cùng bà ấy cho đến chết, là chín trăm ba mươi năm. 

Lời răn thứ bảy 

Giới thứ bảy thì cấm lấy của gì người, khi chủ nó chẳng cho lấy, như thể lấy trộm của người khi người chẳng hay, hay là lấy trước mặt khi ép người, hay là khi buôn bán, cùng khi giao đí gì mà gian[22]. Sau nữa, hễ là làm hại của người thể nào, như thể giết bò hay là ngựa người, hay là đốt nhà người, cùng làm hại sự khác, thì lỗi giới này vậy. Cũng phải hay có phạm giới này, chẳng lọ khi lấy của ngừơi thể ấy, mà lại khi gian, để của gì ở nơi mình, mà người chẳng khứng, hay là chẳng hay (vì chưng cầm lại của người làm vậy, cũng như lấy liên của người). Cho nên, khi được[23] mà chưa có sửa lại sự làm hại của người, cũng chẳng có khỏi tội ấy. 

Lời răn thứ tám 

Giới thứ tám: “Chớ nói chứng dối báng người”, thì cấm nói hành người, khi làm hại tiếng người. Song le sự nói hành người vốn thì có ba giống. Thứ nhất khi trước mặt quan có nói chứng dối báng người, mà có tội cực trọng, vì chưng có báng sự ngay, và lỗi nghĩa cùng người, lại lỗi phép chung người ta. Thứ hai khi bỏ vạ cho người, dẫu chẳng phải trước mặt quan, mà tội ấy cũng trọng, hèn, bằng vạ bỏ là sự trọng, hèn, hay là người chịu bỏ vạ ấy là người trọng, hèn vậy. Thứ ba khi tỏ ra tội còn kín, vì chẳng có ai khứng sự mình lỗi còn kín tỏ ra. Lại giới này cấm chửi rủa người, hay là lỗi phép kính người, dầu miệng nói, dầu mình làm. Sau nữa thì phải hay, ai đã làm hại tiếng người thì phải sửa lại cho lành, như bằng khi ai đã lấy của người. Vì chưng thói người ta, nhất là kẻ trọng, thì lo mất tiếng hơn mất của. Ví bằng có ai bỏ vạ cho người trứơc mặt quan, cho nên người phải thiệt của, chẳng lọ là phải sửa tiếng, mà lại phải đền của thiệt với. 

Lời răn thứ chín và thứ mười 

Cho ta giảng hai giới sau: “Chớ muốn vợ người! Chớ tham của người!”, trước thì ta bảo: hễ là khi đạo thánh Đức Chúa trời có cấm việc gì, thì cũng cấm lòng muốn việc ấy. Như thể vì chẳng nên thề dối, cũng chẳng nên dục lòng thề dối. Vì chưng cội rễ mọi tội ở trong lòng, cho nên khi ai làm việc gì, dẫu cấm trong lời Đức Chúa trời răn, mà khi làm việc ấy chẳng có chủ ý, cũng chẳng có tội. Sự này khi ai dại thì tỏ, vì chưng khi nó làm sự gì, dẫu phạm đạo Đức Chúa trời, cũng chẳng có tội, vì nó chẳng có chủ ý mình. Mà lại khi ai có chủ ý, ví bằng có dục lòng giết người, dẫu mà chẳng có phải giết, đã có tội, lỗi đạo Đức Chúa trời coi thấy lòng động thể nào mà cấm hết trong lòng phạm tội[24]

Sự thật làm vậy, dẫu lòng muốn làm sự gì lỗi lời nào răn, thì có tội, song le nhất là muốn vợ hay là của người, thì có giới riêng mà cấm. Vì chưng loài người ta đã quen sự lỗi, thì lần mê[25] hai tội ấy hơn tội khác. Vì chưng có ai giết người bởi yêu sự giết là họa, thề dối vì yêu sự thề dối cũng là họa, song le vì vốn người ta bởi muốn của người hay là vợ người, thì lần mê ăn trộm hay tà dâm, vì vậy thì phải cấm lòng muốn hai sự lỗi ấy, mà có giới riêng vậy. Lại dẫu giới thứ chín thì cấm các lòng ước sự tà dâm, song le nhất có cấm sự muốn vợ người, vì chưng ai phạm lấy vợ người chẳng lọ là có sự tà dâm, mà lại có lỗi nghĩa cùng bạn khác với. Giới thứ mười thì cấm sự tham của người, mà sự tham này có hai giống: một là khi ai muốn cất lấy của người, hai là khi ai những muốn không hay là của ấy, hay là của khác bằng của ấy. Giới này nhất thì cấm giống tham trứơc ấy, song le ta cũng phải tránh sự tham sau nữa, vì chưng bởi người ta ham cho được của nhiều, thì ra nhiều sự lỗi. 

Này là mừơi sự răn đạo Đức Chúa trời, hay là mười bậc thang mà lên thật trên thiên đàng, cho được vui vẻ đời đời. Ví bằng ai phạm dẫu một bậc trong mười ấy, mà chẳng chừa cho kịp, thật thì phải sa xuống khốn nạn vô cùng. Mà mười giới này hết tóm về hai ấy mà chớ: “nhất là kính mến Đức Chúa trời, là Chúa chúng tôi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức; hai là yêu người như ta vậy”. Hai giới này thì bao lại trọn đạo thánh Đức Chúa trời. Ai giữ đấy thì được hằng sống vậy. Ai trễ nải mà chê đấy, thì phải phạt chết vô cùng. 

Dọn mình chịu phép rửa tội 

Ai nấy đã nghe trót lời giảng từ đầu hết cho đến bây giờ, mà còn có điều gì hồ nghi, thì nên hỏi, hay là chung trước mặt người ta, hay là riêng, mặc người. Ví bằng có hồ nghi sự một vợ hay là nhiều vợ, hỏi riêng thì hơn, mà toan cùng làm thể nào; sự phép rửa tội thì phải gượm đã, cho người làm rồi sự đã toan. Vì chưng đã quen thấy lời hứa làm vậy, nếu chẳng làm khi ai chưa có chịu phép rửa tội, đến khi đã rửa tội rồi, mở đòi tói ấy[26], hỏi ma quỷ đã đóng lại thì khó lắm. 

Đến khi ai ấy đã hỏi điều mình hồ nghi rồi, thì phải dọn mình chịu phép rửa tội, mà làm việc nhân đức về sau. Song le vì bấy nhiêu việc ấy khỏi sức mình, thì phải cầu cùng Đức Chúa trời nhân lành, mà quỳ gối nguyện một kinh Chúa[27]. Lại nguyện một kinh Ave, xin cùng rất thánh đồng thân Maria, là Đức Mẹ Đức Chúa trời, cầu cho chúng tôi làm việc ấy cho nên. Mà vậy kẻ muốn chịu đạo dọn mình cho được chịu gratia, là nghĩa cùng Đức Chúa trời, trong phép rửa tội. Khi hỏi mỗi một người thì chưa và ngoài miệng và trong lòng. Mà lại khi miệng thưa, cho có phép, cũng quàng hai cánh tay trước ngực làm dấu trong lòng có như vậy. 

Thứ nhất là việc tin, vì phải tin Đức Chúa trời là nhất thật, chẳng có ai đối được mình, cũng chẳng có dối được ai, truyền bấy nhiêu lời mà trao cho Ecclesia dạy ta. Trứơc sự Đức Chúa trời, là tính thiêng liêng vô cùng, lòng lành vô cùng, chẳng có lo đến được sự gì lành hơn. Vì chưng là cội rễ đầu mọi sự, mà lại như bia nọi sự nữa. Mà có một tính Đức Chúa trời, song le có ba ngôi, là Đức Cha, và Đức Con và Đức Spirito Santo. Mà Đức Cha thật là Đức Chúa trời, Đức Con cũng thật là Đức Chúa trời, Đức Spirito Santo cũng là Đức Chúa trời vậy. Song le chẳng phải ba Đức Chúa trời, thật cả và ba ngôi cùng một Đức Chúa trời thật, có phép vô cùng, hóa nên trời đất cùng mọi sự sinh ra, dầu ta thấy được, dầu thấy chẳng được. Mà Đức Cha chẳng phải bởi ai, thật là Đức Chúa trời cũng thật là Đức Cha, vì chưng đời trước vô cùng, một mình, chẳng có bạn nào, mà sinh Đức Con, trao trót tính Đức Chúa trời cho, vì thật có sinh Đức Con, mà thể nào, lời nói chẳng đến. Đức Con cũng thật là Đức Chúa trời, và thật Đức Con, vì bởi Đức Cha thật sinh đẻ ra, mà chẳng có mẹ, cùng một tính cùng Đức Cha, cùng mọi sự bằng Đức Cha, hằng có vậy cùng Đức Cha. Lại Đức Spirito Santo thật là Đức Chúa trời, cũng thật là Yêu vô cùng bởi Đức Cha và bởi Đức Con mà ra; là Yêu, vì Đức Cha và Đức Con có yêu nhau từ đời trước vô cùng, lời nói chẳng đến, mà Đức Cha và Đức Con thông ra tró tính mình, là tính Đức Chúa trời, từ đời trước vô cùng, cho Đức Spirito Santo. Vì vậy Đức Chúa trời là ba ngôi, thật ngôi khác nhau, song le ba ngôi này chẳng phải ba Chúa trời, thật là một Đức Chúa trời mà chớ. Sự này dẫu khỏi sức hay biết ta, song le ta phải tin thật vậy, vì Đức Chúa trời đã truyền sự mình cho ta làm vậy. Bay có tin hết lòng chăng? Ai nấy thì phải thưa thật mà nói đi: “Tôi tin thật như vậy!” 

Lại ta phải tin thật Đức Chúa trời, có một tính mà có ba ngôi, là cội rễ đầu, cũng là như bia lòng chúng tôi, mà như thể có thưởng kẻ lành cho chịu phúc vô cùng, lại cũng phạt kẻ dữ bắt chịu hình vô cùng. Có tin thật chăng? Thưa rằng: “Tôi tin thật như vậy!” 

Ta lại phải tin một Con thật Đức Chúa trời, là Đức Chúa Iesu Christo, Chúa chúng tôi, cho chúng tôi được lành chẳng cùng, lấy xác lấy linh hồn người mà làm người thật, bởi phép Spirito Santo, có thật xuống thai mà sinh bởi rất thánh Maria đồng thân, Người khi chưa có đẻ thì đồng thân, khi đang đẻ cũng đồng thân, mà khi đẻ đoạn cũng còn đồng thân. Cho nên Đức Chúa Iesu thật là Đức Chúa trời sinh bởi Đức Chúa trời là Đức Cha, đời trước vô cùng, mà vô mẫu, lại là người thật, có sinh ở thế bởi Maria đồng thân, mà vô phụ. Có tin thật làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi tin thật như vậy!” 

Sau ta phải tin, cũng một Đức Chúa Iesu là Chúa chúng tôi, thật là Đức Chúa trời, cũng là người thật, mà chẳng có tội gì đựơc sốt, vì tội chúng tôi đã chịu đóng đinh, mà chết trên cây Crux, vậy cứu chúng tôi cho đựơc khỏi tội, khỏi chết vô cùng. Vì chưng dẫu Đức Chúa Iesu, ta luận có tính Đức Chúa trời, chẳng chịu đí gì khốn được, cũng chẳng có chết được, mà ta luận tình người, thật là chịu nạn và chịu chết vì chúng tôi. Có tin thật làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi tin thật như vậy!” 

Sau nữa ta phải tin, cũng một Đức Chúa Iesu, là Chúa chúng tôi, như mặc ý mình đã cho linh hồn mình ra khỏi xác thật mình đã chịu chết, cũng đến ngày thứ ba dùng sức mình đã lại sống lại bởi trong kẻ chết. Mà hiện ra nhiều lần cùng đầy tớ đoạn, từ sống lại đến bốn mươi ngày, trước mặt đầy tớ, sự lạ, thì lên trời, chịu chức làm vua chúa trên trời, tay mình có mọi phép, dầu trên trời, dầu dưới đất. Đến khi hết thế lại xuống sáng láng, phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vì chưng khi ấy có thưởng kẻ lành chịu phúc vô cùng, cho và xác và linh hồn kẻ lành vui vẻ đời đời, mà lại phạt kẻ dữ chịu hình vô cùng, bắt và xác và linh hồn nó ở trong lửa địa ngục đời đời vậy. Có tin thật làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi tin thật như vậy.” 

Sau hết thì phải tin mọi lời truyền ra bởi thánh Ecclesia catholica apostolica, là các bổn đạo Đức Chúa trời ở khắp thiên hạ hộp làm một, dưới ông thánh Papa ở nước Roma làm thầy cả trên, thay vì Đức Chúa Iesu, theo đòi ông thánh Pedro như vậy. Có tin thật làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi tin thật như vậy.” 

Việc thứ hai, là kính dái Đức Chúa trời, cùng Đức Chúa Iesu là Chúa chúng tôi, mà ta phải dái đấy hơn mọi sự, vì chưng chẳng lọ là sống chết đời này ở tay Người, mà lại khi đã giết rồi, thì bắt được ở trong tù rạc địa ngục và xác và linh hồn, vậy khiến kẻ nghịch ở trong lửa âm phủ, mà chịu đốt và hình khác nữa đời đời vậy. Có kính dái làm vậy Đức Chúa Iesu trên hết mọi sự chăng? Thưa rằng: “Tôi kính dái Đức Chúa Iesu làm vậy, trên hết mọi sự”. 

Việc thứ ba là trông cậy. Vì có công Đức Chúa Iesu, là Chúa cứu chúng tôi, thi phải cậy Đức Chúa trời nhân lành, có khiến tha mọi tội vạ chúng tôi, nếu chúng tôi có dùng việc Đức Chúa trời thương và giúp sức cho chúng tôi dùng, là việc chính ăn năn tội, mà chịu phép Sacramento, là phép Đức Chúa Iesu phán chịu, và ở ta chịu được, mà chịu cho lập. Có trông cậy tha tội bởi Đức Chúa trời vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi trông cậy như vậy”. 

Lại ta phải cậy Đức Chúa trời nhân lành cho chúng tôi hằng sống vậy trên trời, vì có công Đức Chúa Iesu đã cứu chúng tôi, mà lại có lời Đức Chúa trời cho ta chịu ơn giúp sức cho chúng tôi, nếu ta có dùng sức mình với. Có hằng sống vậy bởi Đức Chúa trời cho chúng tôi làm vậy, có trông cậy thể ấy chăng? Thưa rằng: “Tôi trông cậy hằng sống làm vậy!”. 

Sau hết thì phải trông cậy mọi sự thế này ta dùng khi hãy còn sống, cho thế sau ta đến hằng sống vậy, bởi lòng lành Đức Chúa trời, vì khiến cho vậy. Nhất là trông cậy Đức Chúa trời nhân lành cho gratia, là sức cho chúng tôi được giữ đạo thánh Đức Chúa trời, cho đến trọn đời, vì có công Đức Chúa Iesu. Có trông cậy bấy nhiêu sự này bởi lòng lành Đức Chúa trời chăng? Thưa rằng: “Tôi trông cậy như vậy”. 

Song le vì mến thật chẳng phải là lời nói, thật là việc làm mà chớ, lại có lời Đức Chúa Iesu phán rằng: “Ai mến Tao thì giữ lời Tao răn”, vì vậy cho ta thật lòng mến thì phải có việc làm. Nhân vì sự ấy, nếu ta kính mến Đức Chúa trời cho thật, thì phải giục lòng hết lời răn, Đức Chúa trời giúp sức, cho đến chết. Có giục lòng làm vậy chăng? Thưa rằng: “Có giục lòng làm vậy”. 

Việc thứ năm sau hết là lo buồn trong lòng vì phạm tội, mà ghét nó trên hết mọi sự phải ghét, vì tội là lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời ta kính mến trên hết mọi sự, mà có nhiều lẽ ép ta kính mến làm vậy, như thể ta là kẻ đã chịu ơn nhiều bởi Đức Chúa trời, kể chẳng xiết, nhất là vì Đức Chúa trời ra đời làm con người, mà đã chịu nạn chừng ấy trên cây Crux cho đến chết vì tội chúng tôi. Vì vậy ta phải ăn năn sầu não hết lòng, vì ta đã phạm lỗi gia giết cùng lòng lành Đức Chúa trời, thay vì phải thờ phượng Đức Chúa cả. Đây thì phải lấy ra lại ảnh Đức Chúa Iesu chữa chúng tôi, đóng đanh trên cây Crux, mà ai nấy ăn năn tội trong lòng thể nào, thì tỏ ra hết sức, mà có sầu não ăn năn trong lòng thể nào, cũng nguyện bề ngoài như vậy. Sau thì phải hỏi hết, thật có lo buồn ăn năn trên hết mọi sự lo, vì đã lỗi nghĩa cùng Đức Chúa trời lòng lành vô cùng, thật có lo làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi lo buồn ăn năn như vậy!” 

Song le vì ăn năn thật chẳng những là lo buồn khóc lóc vì tội đã phạm trước, mà lại chẳng có phạm nữa điều nên khóc lóc thể ấy, vì vậy ta phải giục một lòng chịu đí gì khốn nạn, dẫu đến chết, mà chẳng chịu nữa lỗi nghia cùng Đức Chúa trời lòng lành vô cùng. Có giục thật lòng làm vậy chăng? Thưa rằng: “Tôi giục thật lòng như vậy!” 

Những điều trở ngại 

Đoạn mọi việc ấy, thì cho về hết, mà ai nấy thì khóc lóc ăn năn tội mình riêng, ít là một đêm, mà khiêm nhường cầu cùng Đức Chúa trời nhân lành tha tội cho, vì có công Đức Chúa Iesu đã chịu nạn chịu chết cứu chúng tôi; lại xin cùng rất thánh đồng thân Đức Chúa Bà Maria, là Đức Mẹ Đức Chúa trời, và lại xin cùng các thánh cầu cho; cùng ăn chay và nguyện, cho mai sau đã dọn mình nên hơn mà chịu phép thánh rửa tội, là kẻ chẳng có điều gì trở việc thánh ấy, vì đã bỏ hết bụt đi, chẳng lọ bởi lòng, mà lại kẻ làm chủ nhà cũng đã phá đi bởi nhà mình với. Cũng chẳng còn có ước sự gì dữ cho ai, và chẳng còn có trong lòng giận giũi gì ai, mà lại đã tha cho hết oan gia, và có làm sự gì lỗi nghĩa cùng ai, đã đền bằng, mà đã làm lành cùng. Lại có một vợ chính mà thôi: ví bằng là đành bà có chồng, cho nên vợ thật chồng ấy; nếu chẳng phải vợ thật, thì phải xin chữ để trước, khi chưa có chịu phép rửa tội. Sau hết cũng chẳng có mắc nợ gì ai, mà trả được bây giờ. Vì chưng bốn giống này[28] vốn chẳng khá cho chịu phép rửa tội, cho đến khi đã làm rồi lời ấy nói hứa. Vì chưng ta thấy, nước chưa có đạo ấy, kẻ đã nghe giảng mà dọn chịu đạo, có nói hứa nhiều sự khi muốn chịu phép rửa tội, ví bằng chẳng làm khi chưa có chịu phép ấy, đến khi đã chịu rửa tội, chẳng có làm việc ấy, nhất là kẻ mắc vợ mọn. 

Vậy nhiều sự này vốn thì phải giảng cho người ta, khi chưa có chịu phép rửa tội, cho danh Đức Chúa trời cả sáng hơn[29]

------------

Chú thích 

[1] đức trị: đức quan phòng của Đức Chúa trời 
[2] cới tội: cải hối 
[3] sẽ sẽ: dần dần 
[4] ra lẽ: biện bạch 
[5] phép mỏng: tác giả muốn dịch danh từ subtilis, nghĩa đen là thanh nhẹ, dễ lưu chuyển (ví như hương tỏa mùi), thần học dùng danh từ ấy theo nghĩa bóng áp dụng vào thân thể người sống lại hiển vinh. 
[6] trọng vọng: vinh hiển 
[7] thung: thung lũng. Tác giả viết: thủng 
[8] toàn: hoàn toàn 
[9] được: phải chịu 
[10] phép: nghi thức 
[11] nghỉ: dễ dàng 
[12] dấu: dấu hiệu 
[13] thầy: tác giả tự xưng như thế 
[14] ai là ai: ai nấy 
[15] nơi thờ: bàn thờ 
[16] tác giả muốn nói dẫu (…) nhưng ta cũng chẳng chịu thề, làm cho kẻ khác 
[17] trong đạo: hai tiếng hạn chế này không có trong bản latinh 
[18] ngay: công bằng 
[19] ở đây tác giả dùng chữ tà dâm theo nghĩa tính dục 
[20] khá: chính đáng 
[21] tác giả dùng chữ giao cảm với nghĩa là hôn nhân. Trái lại, giao cảm: giao hợp. 
[22] giao: giao ước 
[23] khi được: khi có thể được 
[24] trông lòng: ý muốn phạm tội 
[25] lần mê: chiều theo, hướng về 
[26] đòi tói: xiềng xích 
[27] kinh Chúa: kinh “Lạy Cha” 
[28] giống: hạng người 
[29] khẩu hiệu dòng Tên
Mới hơn Cũ hơn