Phép giảng tám ngày - ngày thứ ba

PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY 

Cho kẻ muốn chịu phép rửa tội
mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời


Giáo Sĩ ĐẮC LỘ - Alexandre de Rhodes




Ngày thứ ba 

ĐỨC THỢ CẢ 

Ngày trước đã giảng, khi chưa có trời, chưa có đất, chưa có đí gì sót trước vô cùng, đã có tính thiêng liêng, là tính khí vô cùng, hằng có vô cùng, phủ mọi nơi vô cùng, mà hay biết mọi sự vô cùng, phép tắc vô cùng, lòng lành vô cùng, lại là công bằng vô cùng. Mà tính thiêng liêng vô cùng này, gọi là Chúa Deus, thật là Đức Chúa trời, dẫu chẳng có dùng gì bề ngoài, mà bui có lọn, vui vẻ một mình no mọi đàng, song le vì có chủ ý mình, lại có lòng lành vô cùng, thì có toan dùng phép mình vô cùng, mà bởi không hóa ra mọi sự có, dẫu xưa đời đời một không vậy. Đến ngày toan làm, thì cho mọi sự có, mà làm nên trời đất cùng mọi sự ở trong thế giới này vậy. Mà dù Đức Chúa trời có muốn hóa ra một chốc mọi sự thì cũng được, mà khiến một lời, chẳng những ra đều hết sự thế giới này, mà lại hóa ra được muôn vạn thế giới khác vô cùng, tốt hơn thế giới này, dẫu đã toan để các thế giới khác không vậy, song le mọi sự đã toan làm ra mà có; thì toan làm ra trong sáu ngày, và cho ta hay Đức Chúa trời có chủ ý tứ mà làm ra bấy nhiêu sự này, và lại tỏ ra làm mỗi một ngày sự nọ sự kia thì ra thiếu, mà một mình chẳng đủ. 

Ngày thứ nhất: chín đấng thiên thần 

Vì vậy thì ngày thứ nhất Đức Chúa trời hóa ra trời trên, để làm đền vui vẻ cho các thánh đã chọn ở đấy đời đời, lại sinh ra đất còn hỗn độn, có nước chung quanh. Khi ấy còn tối tăm hết, mà Đức Chúa trời sinh ra, và sáng có xác cho ta thấy được sự có hình có xác, lại sinh ra sáng thiêng liêng, là tính những thiêng liêng sáng biết. Mà tính thiêng liêng ấy chẳng những là biết mọi tính Đức Chúa trời sinh ra, và biết tỏ mọi phép bấy nhiêu tính ấy, mà lại bởi Đức Chúa trời chịu được sức, là gratia, cho thấy mặt Đức Chúa trời (dù mà các loài thiêng liêng bởi mình chẳng có sức nào mà thấy được mặt Đức Chúa trời), song le chịu lụy Đức Chúa trời cho lọn thì tính thiêng liêng ấy được công chịu vui vẻ làm vậy đời đời. Vì vậy Đức Chúa trời, là Thợ cả, Chúa cả, sinh ra chín đấng thiên thần, mà mỗi đấng có nhiều thiên thần lắm. Sự ấy thì tỏ ra, vì chưng dẫu một đấng thiên thần dưới đủ mỗi một người có mỗi một thiên thần, Đức Chúa trời cho thiên thần ấy giữ gìn ta còn sống ở thế này, từ ngày sinh đẻ cho đến ngày chết thì giữ vậy. Vì vậy thiên thần một đấng dưới ít là, có bao nhiêu người còn sống ở cả và thiên hạ, thì có bấy nhiêu đức thánh thiên thần ấy giữ đấy. Lại có người thánh rằng, thiên thần càng đấng trên thì càng nhiều. Vì vậy quân Đức Chúa trời, là vua chúa cả trên hết mọi vua, vô hội vô số, ta kể chẳng được. 

Mà hay biết thiên thần thì đến chừng ấy, khi đầu hết Đức Chúa trời sinh ra, đã biết mọi tính thế giới này. Song le sự bề trên khỏi tính thế giới này, Đức Chúa trời cho một khi một sáng nữa: mà ba đấng trên, ở liên chầu chực ở liên Đức Chúa trời, thì chịu sáng bởi một Đức Chúa trời, lại ba đấng trên ấy thì sáng ra cho ba đấng giữa, mà lại ba đấng giữa sáng chịu bởi ba đấng trên, lại thông ra cùng ba đấng dưới. Vậy thì các đấng chịu sáng bởi Đức Chúa trời, hay là bởi một Đức Chúa trời cho, hay là bởi đấng trên truyền cho, mà vậy biết ý Đức Chúa cả làm sao, thì vâng tức thì làm vậy. 

Mà phép tắc thiên thần thì lớn chừng này, vì một thiên thần có sức lở động hết cả và trời và các ngôi sao trên, mà mỗi một ngôi sao ấy thì lớn gia giết[1] hơn cả và hòn đất nữa, mà từ đầu hết thế giới này cho đến bây giờ, mấy nghìn năm làm việc ấy liên, chẳng có khi nào dừng, mà chưa có nhọc sốt, dù mà liên cho đến hết thế, cũng chẳng có nhọc nữa. Sự khác ta kể làm chi? Có thiên thần Đức Chúa trời khiến, một mình đánh phá hết cả và giặc thằng Assirio: mà một đêm thì đánh chết một vạn tám muôn năm nghìn[2] quân giặc ấy, dễ lắm, mà chẳng có nhọc sốt. 

Vì vậy Đức Chúa trời, là Chúa cả trên các thiên thần cũng trên hết mọi sự, thì sửa việc chín đấng, hay là chín chiếc lớn quân mình làm vậy. Ba đấng ở trên thiên đàng, mà chầu chực Đức Chúa trời liên, cũng chẳng có quen xuống hạ giới này, là họ, khi có việc gì rất và cực trọng, thì mới xuống làm việc ấy mà thôi, cho được ở liên khen ngợi Đức Chúa trời. Ba đấng giữa thì gìn giữ mọi tầng trời, mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao trên dưới lở động và giáng xuống, cũng coi các phần lớn thế giới này và các loài, kẻo hết, cho thế này lành. Sau hết ba đấng dưới thì coi sóc hạ giới này cho lành làm vậy: đấng nhất thì mỗi một thiên thần có giữ mỗi một nước, mà coi sóc cho lành; đấng nhì thì mỗi một thiên thần giữ gìn mỗi một quan lớn vua chúa, mà dạy dấy trị nước cho nên; đấng dưới hết, thì mỗi một đức thánh thiên thần chịu việc giữ gìn mỗi một người. Song le các chín đấng cực sáng cực trọng đức thánh thiên thần ấy cũng giữ việc giáng[3] sáng và phép Đức Chúa trời giúp sức cho kẻ lên chịu vui vẻ đời đời, bởi lời Đức Chúa trời lối cho. 

Lucifer và đức thánh Michael 

Có kẻ nói làm vậy, nếu có nhiều thiên thần thiêng cực trọng và rất sáng láng, lại có cả phép làm vậy, mà coi sóc thế giới này cho lành: vì sao có nhiều tội vạ, phạm[4] loài người ta khốn nạn? Nếu có nhiều thiên thần có phép bằng an lành, mà coi sóc loài người ta được bằng an lành, vì sao có nhiều giặc đến, nhiều sự láo nháo làm vậy?… Cho ta thưa điều ấy, thì phải hay, hễ là loài có chủ ý mình[5] và có sáng biết, thì Đức Chúa trời là Chúa cả làm nên mọi loài, có hóa ra loài ấy mà cho có ý tứ[6], mặc lòng chọn làm sự lành hay sự dữ. Sự chọn ấy Đức Chúa trời cũng đã cho các thiên thần, mà vậy có chọn vâng phép Đức Chúa trời, là vua Chúa cả, mặc ý mình thì chịu được phúc vui vẻ đời đời, cũng được gratia là nghĩa cùng Đức Chúa trời, hằng bền vững vô cùng vậy, mà thiên thần nguỵ bằng tội mình, thì chịu hình đời đời vậy. Vì vậy dù mà các thiên thần sang trọng ấy, khi đầu hết Đức Chúa trời sinh ra, thì được gratia, là nghĩa cùng Đức Chúa trời, là Cha cả và Chúa cả, song le vì khi sau thiên thần cả, gọi là Lucifer, bởi Đức Chúa trời là vua Chúa cả mà đã chịu chức làm cai trên hết các thiên thần, xem mình có tài lớn, có phép trọng, thì ra lòng không mà dể ngươi, cho đến kiêu ngạo cùng Đức Chúa trời, là vua Chúa cả hóa ra nó, mà nó toan ngồi ở tòa bằng Đức Chúa trời, lại cậy mình làm cai, thì giục lòng các hết thiên thần khác làm nguỵ cùng Đức Chúa trời, mà có dỗ dành gia giết làm sao, cho đến chia các thiên thần làm ba phần, một thì cùng dể ngươi, mà ra trở lòng nguỵ cùng Đức Chúa trời. Song le còn hai phần đức thánh thiên thần, chẳng có lòng nào, giữ lọn nghĩa cùng Đức Chúa trời, là vua Chúa cả, mà hai phần ấy, Lucifer giục lòng làm sao, thì chẳng có nghe sốt, lại che lời nó vững vàng. Vì vậy Đức Chúa trời, là Chúa cả mọi sự, thấy thằng nguỵ Lucifer cùng các thằng theo nó, ra lòng kiêu ngạo làm vậy, mà làm giặc trên trời, tức thì làm địa ngục trong rốn đất, lại hóa ra lửa bền đời đời mà cho lửa ấy có sức đốt bấy nhiêu thiên thần ấy, là đứa nghịch cùng Đức Chúa trời. Cũng khi ấy Đức Chúa trời cho đức thánh Michael, khi đã giữ lọn nghĩa cùng, làm cai cả trên hết quân thánh trên trời, mà Đức Chúa trời phán khiến đức thánh Michael xua thằng nguỵ Lucifer cùng các thằng nghịch theo nó, ra cho khỏi thiên đàng; mà và thằng Lucifer làm cai những đứa dữ tợn nghịch ấy, và những đứa nhất theo thằng Lucifer, làm nguỵ cùng nó, bổ sa xuống dưới địa ngục cho chóng, mà bắt ở trong lửa chịu hình đời đời. Bấy giờ tức thì đức thánh Michael cùng các đức thánh thiên thần, cùng một lòng làm bạn, cùng vâng phép Đức Chúa cả, lấy khí giới thiêng là lời Đức Chúa trời, mà rằng: “Ai bằng Đức Chúa trời? Nào thằng Lucifer là ai, cho nó dám giành ở bằng Đức Chúa trời, là Chúa chúng tôi?” Mà tức thì Lucifer mất chức thiên thần, đổi làm quỷ, gọi là Satan, lại như sấm sét sa xuống địa ngục, cùng nhiều đức nghịch làm bạn cùng nó nữa. Song le cũng có nhiều đứa Đức Chúa trời, có ý sâu nhiệm, còn để ở nơi gió rỗng này, cho đến hết thế, mà những quỷ ấy là kẻ cám dỗ, giục lòng người ta làm mọi sự lỗi. Bởi chúng nó ra mọi đạo vạy, mọi sự gian, thề dối, oan gia, nghịch cùng nhau, tà dâm, giết bỏ người ta, trộm cướp, cùng mọi tội thật bởi chúng nó dỗ lòng người ta phạm làm vậy. Vì chưng Đức Chúa trời, đã làm nên mọi loài, thậc có ý sâu nhiệm, mà chí linh chí công, đã chọn để sự dữ mà bởi đấy làm sự lành, lấy làm hơn chẳng để ai làm sự dữ. 

Ay vậy mà ngày thứ nhất, hay là khi đầu hết, Đức Chúa trời hóa nên trời cùng đất, và thiên đàng cùng địa ngục, mà cho các đức thánh thiên thần có giữ một lòng cùng, ở trên thiên đàng, và chịu gloria, là vui vẻ đời đời, cùng hằng thấy mặt Đức Chúa trời tỏ tường. Lại các thằng nguỵ bắt gia hình khốn nạn đời đời, mà hằng chịu xấu hổ vậy chẳng cùng. Mà lại Đức Chúa trời Cả phán xét người ta thì cũng vậy, vì chưng ai bắt chước thiên thần lành, mà lọn vâng phép Đức Chúa trời là Chúa cả, thì cho chịu phúc đời đời; mà kẻ nghịch bắt chước theo quỷ, thì Đức Chúa trời phạt nó cùng Satan, chịu tội đời đời vậy. 

Năm ngày sau 

Ngày thứ hai, Đức Chúa trời làm ra trời này ta xem, gọi là firmamentum, khi ngày thứ nhất đã hóa nên trời trên, là thiên đàng, con mắt ta xem chẳng đến, thật là nhà các đức thánh thiên thần, cũng là kinh đô Đức Chúa trời làm nên mọi sự. Song le trong Kinh Đức Chúa trời phán rằng trời này ta xem có chia nước ra trên dưới, vì chưng từ hòn đất cho đến trời trên, cả và nơi không ấy, Đức Chúa trời đã đầy những nước, ta gọi là hỗn độn thì cũng nên: trời ta xem thì làm ra giữa nước ấy, mà phần lớn nước ấy, có kẻ rằng Đức Chúa trời đã để trên ấy, còn phần nước thừa, đã để dưới trời này, cho đến che cả và hòn đất. Mà ta nói làm vậy thì cũng nên, Đức Chúa trời lấy nước ấy dưới, và phần nào mỏng thì làm ra và gió rỗng này và lửa, hai vật này đã đầy trời nơi không, từ nước (còn khi ấy bao quanh cả và hòn đất) cho tận trời ta xem. Lại có kẻ thì rằng cả và nơi ấy cũng gọi là trời: vì vậy, trong Kinh Đức Chúa trời, cái chim bay trên gió rỗng này cũng gọi là chim trời. Lại ta phải hay sự ngày thứ nhất, thứ hai, thứ ba, là ba ngạy trước, khi chưa có mặt trời, thì chia ra bởi đã có sáng Đức Chúa trời hóa ra ngày thứ nhất, mà sáng ây trở chung quanh, thì cho nên chia và đêm và ngày. 

Vậy ngày thứ ba khi nước hãy còn bao cả và hòn đất chung quanh, mà thể ấy đất thì chẳng nên cho người ta ở được, Đức Chúa trời làm nên mọi sự, thì khiến nước họp lại mà để phần đất ráo để dành cho người ta được ở, làm vậy thì đã nên biển, là nước họp lại. Thôi đoạn Đức Chúa trời, là Chúa cả, thì khiến đất mọc ra cây cối, cùng khác rau cỏ, cho người ta và muông chim cầm thú, dọn sinh ra ngày sau dùng. Mà Đức Chúa trời khiến làm vậy, tức thì đất, dẫu chẳng có giống nào gieo trong, thì sinh ra cây cối, đã có trái chín đã đầy cùng khác rau cỏ. Mà cũng ngày ấy Đức Chúa trời làm ra nơi vui vẻ, như vườn tốt lành: trong ấy mát mẻ liên như hằng mùa xuân, chẳng có rét, cũng chẳng có sốt quá mà làm khốn gì ai, song le lót năm trên cây có trái chín. 

Sau thì ngày thứ bốn Đức Chúa cả làm nên mọi sự, dọn trời cho tối, mà sinh ra mặt trời cho lở động chung quanh, làm ngày cho sáng, như làm cai ban ngày, cùng sinh ra mặt trăng, như làm cai ban đêm, lại sinh ra ngôi sao tốt lành, chẳng những là làm cho trời tối, mà lại giáng sức mình dưới hạ giới này, cho lành cả và thế giới này. 

Đến ngày thứ năm có lời Đức Chúa trời phán khiến nước sinh ra và các giống chim cho bay trên vậy, và những giống cá cho sống trong nước, mà ở trong nước liền vậy. Mà làm vậy và cái chim và con cá sinh nòi giống mình vậy. 

Mà đến ngày thứ sáu Đức Chúa trời, là Đức Thợ cả làm nên mọi loài, thì lấy đất, mà sinh ra lục súc, cùng giống rắn: lại cho mọi vật ấy có súc sinh nổi loài mình, cho đến hết thế vậy. 

Loài người: ông Ađam 

Lại cũng một ngày ấy Đức Chúa trời toan sinh ra loài người, làm hình tượng thiêng Đức Chúa trời, như thể gộp lại mọi việc đã làm, thật nở mặt thế giới. Vậy thì lấy đất mà làm thân xác người khéo léo hình ba mươi tuổi đồ, và thổi ra khí sống đến mặt người, là lấy không mà sinh linh hồn thiêng, và phú cho ở trong xác ấy đã làm ra lọn. Mà làm vậy thì ra người có linh hồn cho sống, và là ảnh tưởng thiêng Đức Chúa trời làm đấy vậy. Khi ấy có chịu sáng biết và nhân đức bản sức mình, từ đầu hết khi được linh hồn cho sống. Mà lại Đức Chúa trời đem người lên cho được chức gratia, là kết nghĩa cùng Đức Chúa Cha, cùng cho phúc đức nhiều trên sức mình, cho được chịu phúc vô cùng vui vẻ đời đời, cùng đức thánh thiên thần. Lại Đức Chúa trời cho người làm chúa trên hết muông chim cầm thú, và có ở dưới đất, và trên gió rỗng và con cá trong nước, cho nên các vật ấy, bởi phép Đức Chúa trời cho, tự nhiên thì phải chịu luỵ người. Mà người đặt tên cho mỗi một vật ấy phải tính nó: vì chưng ông Ađam[7] có đặt tên cho các vật làm sao, thì phải tên nó vậy. 

Mà cho ông Ađam khi còn ở thế này được thanh nhàn hơn, thì Đức Chúa trời đem vào ông Ađam ở trong vườn vui vẻ, mà trong ấy chẳng kể cây khác có trái, lại có cây nào gọi là cây sống lâu, vì chưng ai ăn trái cây ấy, dù mà đã già yếu, thì cho sức bằng trẻ lại. Song le Đức Chúa trời là Chúa cả khiến thử lòng ông Ađam có vâng phép Chúa cả thể nào, mà trong vườn vui vẻ ấy có một cây, gọi là cây làm cho biết lành biết dữ, mà cây ấy chẳng cho ông Ađam, bèn cầm trái một cây ấy, mà chẳng cho ông Ađam ăn, dù mà đã phú cho một trái khác ở trong vườn vui vẻ dầu lòng ăn[8], lại đe rằng: “Có ăn trái ấy ngày nào thì chết ngày ấy. Mà sự chết ấy, thì phải hay nhất về sự linh hồn chẳng hay chết, mà phải chết là mất gratia, mất nghĩa cùng Đức Chúa trời đã cho đầu hết, là sống thật linh hồn: mà phạm trái ấy bao giờ, thì mất sống linh hồn bấy giờ. Mà đến sau xác cũng phải chết, khi linh hồn ra khỏi xác, lại cũng phải nhiều sự khốn nạn kể chẳng xiết, hay là ở cùng hai sự chết ấy, hay là phải trước, hay là theo sau. Vì vậy, khi ông Ađam nghe thấy có lời Đức Chúa trời, là Chúa Cha sinh ra mình, có răn làm vậy, mà lại đe chết và xác và linh hồn, cùng tai vạ khác vô hồi vô số, cũng phạm[9] hết đời mình sau phải mất gratia, mất nghĩa cùng Đức Chúa trời, nếu ông Ađam chẳng vâng phép Đức Chúa cả, thì phạm mọi sự khốn nạn ấy. Chốc ấy ông Ađam chịu phép Đức Chúa Cha hết lòng, mà rằng: “Tôi lạy Đức Chúa trời, tôi xưa chẳng có, mà Đức Chúa trời khi nãy lấy không mà hóa ra tôi; tôi có đí gì bởi đức Chúa Cha cho tôi, trong mình và bề ngoài nhiều sự lành cũng cho tôi hết. Tôi chẳng yêu gì, tôi hay một ước thể nào cho tôi đẹp lòng Đức Chúa Cha. Vì vậy có lời nào Đức Chúa trời, thì tôi vâng hết, mà lại tôi đã chịu ơn Đức Chúa Cha nhiều làm vậy, mà tôi kiêng trái một cây ấy là bấy nhiêu hột cho tôi chẳng giữ vậy!” 

Bà Eva 

Khi ấy ông Ađam chưa có bạn, mà Đức Chúa trời làm cho ông Ađam ngủ đi. Đến khi đang ngủ, thì Đức Chúa trời lấy một xương sườn cụt ông Ađam ra, mà để vào thịt thay nó, lại làm xương ấy nên xác đàn bà, hình cũng một tuổi đồ bằng ông Ađam, mà lại hóa nên linh hồn đem vào trong xác ấy. Thoắt chốc ông Ađam thức, mà thấy bạn thì rằng: “Xương này bây giờ là xương tao, và thịt này là thịt tao”. Nhân vì sự ấy người thì để cha mình và mẹ mình, mà lấy vợ mình làm một cùng, vậy thì hai người ra cùng một thịt. Ông Ađam có chịu phép nói sấm truyền mà nói bấy nhiêu điều. 

Mà ta phải xét lời ông thành quân tử nào như vậy. Khi Đức Chúa trời làm ra đàn bà, chẳng có lấy xương đầu ông Ađam mà làm, vì chưng đàn ông là đầu đàn bà, mà đàn bà phải chịu luỵ chồng. Vì dẫu mà đàn bà bảo sẽ sẽ chồng khi chồng lỗi, thì cũng được, song le mắng mỏ chồng thì chẳng được, vì chưng phải chịu luỵ mà chẳng phải đầu chồng đâu. Song le Đức Chúa trời cũng chẳng có lấy xương chân mà làm đàn bà ra, bèn lấy xương sườn cụt mà làm: vì chưng chồng chẳng khá lấy vợ làm như tôi tá, mà nên yêu như bạn vậy. Lại Đức Chúa trời chẳng có làm cho ông Ađam hai ba vợ, bèn cho một vợ vậy,[10] vì chưng hai người thì nên một thịt, như lời sấm truyền ông Ađam nói ra, mà chẳng phải nhiều. Lại người Annam cũng nói vậy: hai vợ chồng gửi xương gửi thịt nhau. Vì chưng như chồng có phép trên mình vợ, cho nên khi chồng còn sống, vợ lấy chồng khác chẳng được; vợ thì cũng có phép trên mình chồng như vậy, vì chưng khi vợ còn sống chồng lấy vợ khác cũng chẳng được. Vì có phép Đức Chúa trời răn, làm vợ chồng bằng nhau trong việc ấy, mà từ đầu hết thế ông Ađam cùng bà Eva có giữ làm vậy. Đến sau hễ là kẻ có giữ đạo thánh Đức Chúa trời, ít là cho đến lụt cảa, là đoạn trước thế giới, cũng có theo như vậy, như sẽ giảng sau, khi nói đến sự ông Noel cùng sự con cái ông ấy, và trước lụt cả và sau. 

Ngày thứ bảy 

Vậy thì Đức Chúa trời, là Đức Thợ cả mọi sự, trong sáu ngày làm ra mọi loài, mà nói rằng ngày thứ bảy mọi việc rồi thì có nghỉ. Vì chưng ngày thứ bảy chẳng có làm việc gì mới, chẳng có hóa ra vật nào mới, mà nói lành trên ngày thứ bảy và làm ngày ấy thánh. Mà ông Ađam cùng bạn thì bắt chước như vậy, vì chưng có giữ ngày thứ bảy để thờ phượng Đức Chúa cả, cám ơn nhiều kể chẳng xiết, mà truyền giữ vậy. Cho nên từ đầu hết thế đến nay, hễ là kẻ có thờ thật Đức Chúa trời đời nào, liên có giữ làm vậy, chẳng sai một chút. Vì chưng hễ là bảy ngày thì lấy một làm lễ lạy, mà để thờ phượng Đức Chúa cả làm nên mọi sự, mà khi sáu ngày thì làm việc mọn kiếm ăn kiếm mặc cho xác, như thể việc cày cấy, buôn bán, làm thợ làm thùng[11], cùng khác việc giống ấy, thì một ngày đừng làm mọi việc mọn ấy, để mà thờ phượng Đức Chúa trời hết lòng, mà làm vậy thì cám ơn nhiều vô hồi vô số, chịu liên liên bởi Đức Chúa cả làm nên mọi sự, mà dẫu khen ngợi Đức Chúa trời rất lành rất cả, và cám ơn hết sực đấy, liên thì con xa lắm, mà chẳng bằng ơn chịu mình vậy. 

Trong vườn vui vẻ 

Ay vậy mà tổ tông ta khi ấy ở trong vườn vui vẻ ấy, bằng an lắm và xác và linh hồn, hay là trên gió rỗng, cũng là con cá trong nước, có chịu luỵ hết mà vâng phép người. Như thể vì bằng ông Ađam có gọi muông sư tử ở trên rừng, tức thì muông sư tử có chạy đến, tự nhiên vâng phép người, bởi Đức Chúa trời cho làm chủ nó; lại nếu ông Ađam có gọi con cá nào ở trong biển cả, bỗng chốc thì lội đến; hay là có cái chim nào bay cao trên gió rỗng mà khiến lại, thoắt chốc thì vâng phép mà bay lại. Vậy trong vườn ấy chẳng có sốt gì cũng chẳng có rét mà nên khó làm sao, bèn trong ấy như có mùa xuân liên, cho tổ tông ta ở mát mẻ, vui an lành liên vậy. Mà lại có sự trọng hơn nữa, vì chưng khi ấy thân xác thịt thì có chịu luỵ linh hồn, mà chẳng có cãi phép ấy. Và các phép thịt trong ngoài thì vâng phép lẽ phải, mà chẳng hay cãi sốt. Lại mọi sự tổ tông ta có chịu ở mình với gratia, là nghĩa cùng Đức Chúa trời, đã chịu khi đầu hết chịu sống, thì cũng truyền hết cho con cho cháu, mà chẳng có dái chết cũng đến khi ở thế này đã no, mà hay là tổ nể, hay là con cái, muốn lên thiên đàng chịu vui vẻ đời đời, thì Đức Chúa trời rước lên và xác và linh hồn, mà khi ấy chẳng có phải chết đâu. 

Tổ tông phạm tội 

Song le khi tổ tông ta ở vui vẻ an lành làm vậy, ma quỷ dữ thì ghen ghét, vì khích nghịch Đức Chúa trời, mà làm chi đấy chẳng được, thì toan phá ảnh tưởng Đức Chúa trời yêu, mà dùng hết sức dữ tợn mình làm hại loài người, nhất là vì chưng đã hay tòa vui vẻ trên trời và mình và bạn mình đã bỏ mất, Đức Chúa trời để dành cho người ta ở. Ma quỷ thấy vậy mà kiêu ngạo, thì nói rằng: “Sự làm sao cho tao chịu được, cho có người bởi đất mà ra, lại ngồi ở được tòa cực trọng cực vui, tao đã mất đi, mà tao là tính những thiêng liêng, ngồi ở trong địa ngục, mà chịu những sự rất khốn khó ru? Thật tao làm cho nó nghịch cùng Chúa trời với, mà vậy nó ngã nơi chết đời đời cùng tao!” Vậy thì ma quỷ dữ xem thấy chồng khôn ngoan hơn, mà chẳng nghĩ chịu lời nó cám dỗ, vì vậy nó chọn dỗ dành đàn bà yếu sức hơn, mà được vợ ngã, thì giục vợ cho được chồng bỏ mất sự vui vẻ, mà ngã trong sự khốn nạn vậy. Nhân vì sự ấy ma quỷ thì dọn[12] khi nào kịp cho gặp đàn bà ở một mình, mà khỏi mất chồng, cho nghỉ dối đàn bà được. Khi ấy ông Ađam thì đã nói tỏ tường cùng bà Eva những lời Đức Chúa trời răn: chớ có ăn phải trái cây biết lành lánh dữ, mà phải chết. Đến sau có ngày bà Eva ở một mình, mà đi chơi ở trong vườn vui vẻ, đến nơi có cây cấm ấy thì coi lại lắm, mà khen rằng, thấy thì tốt lành, và vui xem; song le tay đá đến thì chẳng dám. Mà vậy thì mở đàng cho ma quỷ cám dỗ được. Vì chưng ma quỷ thấy vậy thì nhập vào trong con rắn, mà hỏi rằng: “Trái này tốt lành, sao bà chẳng ăn?” Mà bà ấy thưa lời dại rằng: “Đức Chúa trời có cấm, mà ăn phải dái chết chăng”, như thể bằng hồ nghi, ăn phải có chết chăng. Mà lời hồ nghi làm vậy thì mở cửa cho ma quỷ dối mà cám dỗ được. Vì ma quỷ tức thì cãi lời Đức Chúa trời mà dối rằng: “Nào có chết đâu, vì chưng Chúa trời đã hay, ngày nào bay ăn phải trái này, thì mở con mắt bay ra, được chức bằng Chúa trời, mà biết sự lành sự dữ!” Vậy thì ma quỷ dám bỏ lòng ghen ghét cho Đức Chúa trời là Đức Chúa cả, như thể bằng Đức Chúa trời chẳng cho người ta biết sự lành sự dữ, mà vì sự ấy cấm trái cây ấy, cho kẻo người ta được chức bằng Chúa trời, biết lành biết dữ ru. Mà làm vậy đàn bà nghe lời ma quỷ dữ ở trong con rắn quỷ quái, mà bỏ lời Đức Chúa trời, vì tay mình cầm lấy trái cấm, nghe lời dối mà ăn, vậy thì lỗi nhiều sự. Trước thì có lỗi, vì để chồng mà một mình đi chơi dông dài trong vườn vui vẻ: vì hằng ở cùng chồng, ma quỷ thi chẳng dám đến cám dỗ bà ấy. Hễ là đàn bà thì phải xem gương này mà học, chớ có đi dông dài một mình khi chẳng có bạn ngay, mà phải kẻ gian. Sau khi bà Eva có lỗi, vì có xem lâu trái cấm, mà trong lòng cũng khen rằng: xem thấy tốt lành bấy; âu là ma quỷ thấy vậy, thì lấy làm kịp mà cám dỗ, cho hết ta được hay, hễ là vật gì ta chẳng nên ước, ta chờ coi lại, chớ khen. Thứ ba thì cũng lỗi, vì nói khó cùng ma quỷ ẩn mình trong con rắn: vì chưng khi nghe thấy tiếng con rắn, lẽ thì phải trốn tức thì, đi tìm chồng, mà nói ra cùng những lời độc dữ ấy, con rắn dỗ dành giục lòng làm sao, mà chớ trả lời gì nó, kẻo mắc lời dối. Song le vì đã thưa những lời láo nháo, thì chóng phải sa cám dỗ. Sự này dạy đàn bà chớ có dễ nói khó cùng kẻ chẳng biết là ai, nhất là khi ở một mình cho kẻo phải gian tà. Sau hết đàn bà có tội lắm, vì lời thật Đức Chúa trời răn, mà chẳng giữ thì đe chết thật. Eva lấy làm hồ nghi vậy rằng: “phải ăn có chết chăng”, mà lời hồ nghi làm vậy, thì có mở đàng cho ma quỷ dối trá mà chối vậy rằng: “chẳng có phải chết đâu”. Vậy cho ta hết thay thảy học sự lời Đức Chúa trời, chớ có dái dối sốt, chớ có lấy làm hồ nghi, mà lỗi lắm. Vì chưng Đức Chúa trời đã biết hết mọi sự, dù mà chưa có sự ấy, vì vậy chẳng có ai dối được Đức Chúa trời; mà lại Đức Chúa trời chẳng có dối được ai, vì chưng là nhất thật thà vô cùng, lòng lành vô cùng vậy. Song ta phải lấy lời Đức Chúa trời ta tin, lấy như thuẫn thiêng mà tái hết tên lửa, ma quỷ bỏ cho ta, vậy ta lấy lời tin, mà ở rắn mặt cùng nó. Chẳng kể sự đàn bà ước cho biết láo nháo vậy, mà tin lời quỷ khi rằng: “được chức bằng Chúa trời”. Au là sự muốn láo nháo ấy cho biết, có giục lòng Eva phạm tội hơn sự thèm ăn. Vì chưng trong vườn vui vẻ chẳng có thiếu gì trái khác tốt hơn xa lắm, nhất là cây sống lâu ở giữa vườn vui vẻ, mà Đức Chúa trời cho tổ tông ta ăn và trái ấy sống lâu và trái khác đầu lòng; có một trái ấy biết lành biết dữ, Đức Chúa trời cấm mà thôi. 

Mà đàn bà ăn trái cấm chẳng lấy làm vừa, lại giục lòng chồng cũng phạm tội ấy. Vì chưng khi mà quỷ đến cám dỗ ông Ađam, một mình chẳng dám, mà nhất là có ý muốn làm cho ông Ađam ngã, vậy thì làm hư đầu cho cả và loài người ta nát với. Nhân vì sự ấy thì giục đàn bà lấy trái cấm, mà dâng cho chồng. Ay vậy mà ông Ađam thấy bạn mình yêu hết lòng, đã ăn phải trái cấm mà hư, chẳng lọ là chẳng có mắng, mà lẽ thì đã mắng, lại bắt chước bạn mà ăn phải trái ấy đàn bà dâng cho. Song le ông Ađam chẳng có phải lời nhứ nhảm[13] đâu, vì chưng ông Ađam đã biết tỏ tường, ăn thì phạm răn, mà bỏ mất gratia, là nghĩa cùng Đức Chúa trời, lại bỏ mất nhân đức cho đầu cho mình, lại bỏ mất cho cả và loài người ta nữa, mà vậy phạm tội thì phải chết và xác và linh hồn, cũng phải những sự khốn nạn mình vô hồi vô số, cùng cả và họ mình nữa phải vậy. Song le bởi yêu bạn đã quá, dẫu đã hay có phạm những sự tai vạ làm vậy, cũng chọn chịu vậy, mà kẻo mất lòng bạn, âu chẳng nề phạm răn Đức Chúa trời, mà ăn phải trái Đức Chúa trời cấm vậy. 

Phạm tội đoạn thì tổ tông ta tức thì hổ ngươi, vì mình ở trần truồng, mà lấy lá cây vả, may lại che mình. Khi ấy thấy tiếng Đức Chúa trời đi lại trong vườn vui vẻ, thì sợ hãi, mà ẩn mình giữa vườn vui vẻ vậy. (Au là Đức Chúa trời có lấy hình tượng nào, cho tổ tông ta thấy được, mà vây trách tổ tông ta). Song le nào có ẩn mình đươc hay là tránh con mắt Đức Chúa trời đã thấy hết mọi sự rất tỏ tường? Vậy thì Đức Chúa trời gọi ông Ađam rằng: “Mày ở đâu?” Ông Ađam thì sợ, vì có tội, mà thưa rằng:”Tôi lạy Đức Chúa trời, tôi đã nghe tiếng Đức Chúa trời trong vườn vui vẻ, mà tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng, thì tôi ẩn mình.” Đức Chúa trời lại phán rằng: “Ai bảo mày, cho mày hay mày ở trần truồng? Thật bởi mày ăn phải trái Tao đã cấm mà chớ!” Vì chưng khi tổ tông ta hãy còn lành, giữ lọn nghĩa đầu hết Đức Chúa trời cho, dẫu trần truồng, cũng chẳng có hỗ ngươi. Song le phạm tội đoạn, vì minh xác có nghịch cùng linh hồn, mà trần truồng, thì hỗ ngươi. Khi ấy Đức Chúa trời bỏ tội ông Ađam trước mắt ông ấy, cho ông ấy xưng ngay tội mình, mà nghỉ chịu được tha vậy. Song le ông Ađam có chọn bỏ tội mình trên đàn bà, mà vậy cũng như bỏ trên Đức Chúa trời, rằng: “Tôi lạy Đức Chúa trời, đàn bà Đức Chúa trời cho tôi làm bạn cùng, thì cho tôi trái, mà tôi đã ăn”. Ông Ađam thì nói vậy, như thể vâng lời Đức Chúa trời răn, mà bỏ lời đàn bà dỗ dành, chẳng hơn ru. Nhất vì ông Ađam chẳng có phạm vì ai dối mình đâu, song thì biết, và giục lòng ăn trái chết vậy. Sau thì Đức Chúa trời cũng hỏi đàn bà, phán rằng: “Sao mày làm thể ấy gái kia?” Mà đàn bà thưa rằng: “Tôi lạy Đức Chúa trời, con rắn đã dối tôi, mà tôi đã ăn”. Như bằng giải mình, mà bỏ hết vạ cho con rắn vậy, khi Đức Chúa trời muốn cho đàn bà xưng mình có lỗi, và khi mình lấy trái cấm mà ăn, và khi dâng cho chồng ăn cùng. Song le vì Đức Chúa trời rất nhân, mà từ ấy đã dọn chữa loài người ta đã ngã mà khốn nạn làm vậy, trước thì mắng con rắn, hay là thật mắng phạt quỷ đã lấy hình con rắn, ẩn mình, thì Đức Chúa trời phán rằng: “Ngày sau Tao làm cho mày cùng đàn bà nghịch nhau, và giống ra bởi mày cùng giống ra bởi đàn bà, cho hai giống nghịch nhau, mà đàn bà ngày sau đạp gia giết đầu mày”. Lời này Đức Chúa trời phán, là sấm truyền sự ma quỷ ngã, vì có Đức Chúa trời cứu thế, bởi đàn bà mà sinh đẻ ra đời. Sau thì mời phán nhiều sự khốn nạn, tổ tông ta cùng cả và họ phải chịu, sau nữa thì cũng phải chết hết, vì bởi tội ông Ađam. Nhân vì sự ấy Đức Chúa trời xua tổ tông ta ra khỏi vườn vui vẻ, mà chẳng còn có trông được trở lại trong ấy nữa, cho kẻo ăn được trái cây sống lâu, mà là vậy khỏi chết xác. Bởi đấy cho nên ta hết thay thảy, khi mới đẻ ra, đã phải lây trộ[14] tội tổ tông ta truyền cho ta. 

Vì vậy dẫu trẻ nào mọn mới đẻ, mà chưa có chủ ý mình, song le khi chưa có đẻ ra, phải tội tổ nể truyền cho. Bởi đấy cho nên trẻ nào dẫu mọn thì phải chịu phép mà giải tội ấy, cho kẻo phải mất đời đời sự vui vẻ trên trời, nếu tình cờ phải chết khi chưa có chủ ý mình, vì đã phải mất nghĩa cùng Đức Chúa trời. Nếu trẻ mọn nào phải sinh thì khi đã chịu phép rửa tội cho nên, thì được chịu vui vẻ đời đời, làm bạn cùng đức thánh thiên thần vậy. Vì vậy thì phải lo cho nên, mà làm phép ấy, dẫu cha mẹ chưa có đạo mà con trẻ khi rình chết chưa có chủ ý mình. Mà phải lo việc ấy cho khéo, dù mà cha mẹ con trẻ ấy chẳng hay, hay là chẳng khứng, mà con trẻ đã rình chết, thì phải làm phép rửa tội cho kịp, khi chưa có tắt hơi. Mà phúc thương xót này, thì phải lấy làm trọng hơn thì cho kẻ khó của trọng vô hồi vô số vậy. 

Chú thích 

[1] gia giết: lắm 
[2] Tác giả muốn nói: 185.000 
[3] Tác giả viết giáng, giuấng, hay giuống 
[4] Phạm, tác giả dùng chữ này với nghĩa là: làm hại, gánh chịu, ngã. 
[5] Thành ngữ chủ ý nghĩa là tự chủ, có khi chỉ trí khôn. 
[6] Tự do 
[7] Tác giả không bao giờ viết “Ađam” 
[8] Dầu lòng: tuỳ thích 
[9] Phạm đời: dòng dõi 
[10] Nguyên bản viết mấy (!) 
[11] làm thùng: làm thuyền 
[12] dọn: nguyên bản chép dọm (?) 
[13] nhứ nhảm: dối trá 
[14] lây trộ: vết nhơ
Mới hơn Cũ hơn