CÁC BÀI SUY NIỆM TUẦN VII PHỤC SINH
THỨ HAI
Cv 19,1-8 – Ga 16,29-33
"Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Dựa vào lời Chúa hôm nay, ta hãy suy nghĩ về thái độ của mình. Trước khi Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ nói là minh không cần Chúa dạy dỗ thêm nữa, các ông đã nhận đủ giáo lý của Chúa, các ông đã hiểu rõ về Chúa, vì nay Chúa nói rõ ràng mọi sự, không còn nói bóng nói gió về điều gì nữa. Nhưng thật ra các ông không còn nhận thêm được giáo lý của Chúa, không đủ sức hiểu thêm… vì nếu đã nhận đủ và hiểu đủ giáo lý của Chúa thì sao chỉ vài giờ sau khi nói những lời quả quyết ta vừa nghe, các ông lại bỏ chạy, lại chối Thầy… vì lúc này các ông đang là những con người xác thịt, thuộc về thế gian này, các ông chưa nhận được Thánh Thần do Chúa Phục sinh gởi đến.
Chúng ta cũng coi chừng kẻo rơi vào thái độ của các tông đồ. Nhiều khi ra cho là mình đã hiểu hết về Chúa, đã biết rõ giáo lý của Chúa, rồi chẳng bao giờ mở Thánh kinh ra đọc lại, suy nghĩ về lời Chúa, về đời sống Chúa… Ta biết là ơn Thánh Thần cần thiết biết bao cho con người xác thịt. Ta hãy thiết tha xin Thánh Thần đến trong lòng ta trong những ngày này cách đặc biệt.
THỨ BA
Lễ Đức Mẹ thăm viếng
Xp 3, 14-18a, Lc 1, 39-56
"Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Chuyện kể rằng: một thiếu nữ hôm mừng sinh nhật tuổi 17, đã xin Mẹ cô một chiếc gương soi cở lớn, nhưng người mẹ đạo hạnh lại cho cô một gói quà nhỏ. Mở ra, cô thấy một bức ảnh Đức Mẹ với lời đề tặng: “Đây là chiếc gương lớn nhất mà mọi người cần soi bóng.” Bấy giờ thiếu nữ mới hiểu và hằng ngày cô đã soi bóng mình trong tấm gương Maria và sau đó cô đã đi tu và sống một cuộc sống thánh thiện, trở thành một vị thánh.
Người thiếu nữ trong câu chuyện trên đây nhờ người mẹ đạo hạnh nên biết soi chiếu đời mình nơi tấm gương Đức Maria. Thật vậy, Đức Maria chính là mẫu gương tuyệt hảo về mọi nhân đức cho mỗi người chúng ta noi theo. Hôm nay, chúng ta cùng nhau noi theo gương thăm viếng của Mẹ.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe thánh Luca tường thuật lại biến cố Mẹ đi thăm viếng bà Êlizabéth. Biến cố này diễn ra liền sau khi Mẹ vừa chấp nhận lời Thiên thần truyền tin để cưu mang Đấng Cứu Thế. Lúc đó, Thiên thần Gabriel báo cho Mẹ biết bà Êlizabeth đã cưu mang Thánh Gioan Tẩy Giả được sáu tháng. Mẹ liền chổi dậy, vội vã đi lên miền núi. Không phải Mẹ “vội vã” tới nơi bà Êlizabéth để kiểm chứng lời của Thiên thần loan báo, cũng không phải để khoe khoang với Bà Êlizabét vì Mẹ được làm Mẹ Đấng Cứu Thế? Nhưng sự “vội vã” nói lên tâm tình của Mẹ: tâm tình muốn chia sẻ; tâm tình muốn giúp đỡ. Vì muốn chia sẻ niềm vui có Chúa trong mình, vì muốn giúp đỡ bà chị họ trong lúc khó khăn, nên Mẹ đã chấp nhận hy sinh lên đường. Mẹ “đi lên miền núi,”. Đường miền núi chắc chắn sẽ khó khăn vất vả: bụi bặm trong những ngày nắng, trơn trượt trong những ngày mưa. Nhưng dù khó khăn vất vả đến mấy cũng không ngăn cản được tình yêu của Mẹ. Mẹ đã lên đường. Mẹ đã vượt qua được quảng đường dài đầy gian nan vất vả, cuối cùng Mẹ đã đến. Giờ phút hai bà mẹ gặp nhau. Người thăm viếng và người được viếng thăm tay bắt mặt mừng. Niềm vui trong giờ phút đó không bút mực nào tả xiết. Đối với Bà Êlizabéth, được “Chúa cất đi nỗi tủi nhục,” cho bà mang thai trong tuổi già, đã là niềm vui vô cùng to lớn. Giờ đây, niềm vui đó được nhân lên gấp bội khi được “Mẹ Chúa đến viếng thăm." Còn Mẹ Maria, Mẹ vui vì có Chúa trong mình. Mẹ vui vì thấy được những sự lạ lùng đang diễn ra trong cuộc đời của Mẹ. Mẹ vui hơn khi được chia sẻ niềm vui đó cho bà chị họ. Khi nghe bà Êlizabéth ca tụng, Mẹ quy hướng tất cả những gì Mẹ được về cho Thiên Chúa “Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu.” Chính vì vậy, Mẹ đã cất lời ngợi khen Thiên Chúa bằng lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi.”
Niềm vui giữa hai bà Mẹ được lan toả sang hai người con đang còn trong bụng. Bà Êlizabéth đã xác nhận: “Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi.”
Chính niềm vui hôm nay đã được tiên tri Sôphônia tiên báo, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.” Vị tiên tri đã báo trước về ngày này. Ngày vua Israel thực hiện lời hứa. Ngày Ngài viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Hiệu quả của cuộc thăm viếng này vô cùng lớn lao: bà Êlizabeth được Mẹ lưu lại giúp đỡ trong những ngày thai nghén, sinh nở: “Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.” Thánh Gioan Tẩy giả được khỏi tội Tổ Tông Truyền ngay từ trong lòng Mẹ. Như vậy, cả nhà ông Giacaria đều tận hưởng niềm vui hoàn hảo vì có Chúa và Mẹ ở cùng.
Biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà Êlizabéth không những mang tính lịch sử mà còn là mẫu mực cho các cuộc thăm viếng của con người qua mọi thời đại.
Trong cuộc sống, chúng ta thường thể hiện tình yêu thương bằng nhiều cách thế khác nhau: có thể bằng một tin nhắn, bằng một cú điện thoại, bằng một lá thư điện tử, bằng một lá thư viết tay, bằng một gói quà đặt trọn tất cả tấm lòng trong đó..., nhưng tất cả những cách thức đó không thể thay thế cho sự thăm viếng cách trực tiếp. Bởi vì, thăm viếng không chỉ là chuyện thường tình giữa con người với nhau: giữa anh chị ruột thịt với nhau, giữa bạn bè với nhau, giữa làng xóm láng giếng với nhau, giữa người khoẻ với người đâu yếu…Nhưng có khi sự thăm viếng lại là một bổn phận: bổn phận giữa bề dưới với bề trên, bổn phận giữa người khoẻ với người ốm đau bệnh tật, bổn phận giữa con cái cháu chắt với ông bà cha mẹ. Con cái có bổn phận thường xuyên thăm viếng cha mẹ, nhất là khi cha mẹ gặp sự khốn khó, bệnh tật, như người xưa dạy rằng:
“Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”
Tuy nhiên, trong thời buổi kinh tế thị trường, người ta thường hay vịn lý do công việc để miễn trừ cho bổn phận thăm viếng ông bà, cha mẹ. Nhưng thử hỏi, công việc, tiền bạc quan trọng hơn hay là bổn phận thăm viếng, lòng thảo hiếu với ông bà cha mẹ quan trọng hơn? Cần dành thời gian nhiều để thăm viếng. Thăm viếng khi vui, thăm viếng khi buồn, thăm viếng khi ốm đâu bệnh tật. Người ta thường nói: “Vui chia vui thành hai vui khác, buồn chia buồn chỉ còn một nữa.”
Để các cuộc thăm viếng mang lại niềm vui và hiệu quả tốt đẹp, cần phải noi gương Mẹ Maria luôn phải mang Chúa trong mình. Có Chúa là có tình thương, niềm vui và bình an. Khi đó cuộc thăm viếng của chúng ta mới đem tình yêu đến cho mọi người.
Xin cho mỗi Kitô hữu chúng ta, luôn bắt chước gương thăm viếng của Mẹ Maria. Hãy thăm viếng nhau và đem lại cho nhau những niềm vui và sự bình an. Hãy thăm viếng những người yếu đau và có thể mang theo những món quà với tình thương mến. Bề trên hãy thăm viếng những người bề dưới với sự đồng cảm và sẻ chia. Bề dưới hãy thăm viếng bề trên với lòng hiếu kính. Đặc biệt, trong các cuộc thăm viếng hãy mang Chúa đến cho tha nhân, như Đức Mẹ đem Chúa đến cho cả gia đình ông Giacaria ngày xưa.
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết noi gương Mẹ Maria luôn biết siêng năng thăm viếng tha nhân. Xin Chúa đồng hành với chúng con trong các cuộc thăm viếng, để các cuộc thăm viếng của chúng con mang lại niềm vui và sự bình an cho tha nhân. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
THỨ TƯ
Cv 20,28-38 – Ga 17, 11-19
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
"Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".
Kẻ sống trong Thánh Thần chẳng những ý thức về bổn phận mình và quyết tâm chu toàn mà còn đầy tình thương và sự tế nhị khi cư xử với tha nhân. Đó là điều ta thấy nơi Chúa Giêsu và thánh Phaolô, khi hai ngài sắp giã biệt những kẻ thuộc về mình. Lòng ân cần và sự tế nhị của hai ngài khiến chúng ta cảm kích.
Biết rằng mình không còn sống gần giáo đoàn nữa, thánh Phaolô đã vì thương các tín hữu mà tập họp các trưởng giáo đoàn đến, dặn dò họ yêu thương đoàn chiên, lo chốn sói dữ là những kẻ xấu sẽ xuất hiện giữa đoàn chiên và làm hại mọi người, lo đêm ngày tĩnh thức trong sự gắn bó với Chúa và tận tuỵ với các linh hồn, lo sống thanh thoát, không trục lợi trên đoàn chiên được trao phó cho mình.
Chúa Giêsu cũng hướng cả tâm tình yêu thương về những kẻ tin. Trước khi rời bỏ họ, Ngài phó thác họ trong tay quan phòng của Cha. Họ là những kẻ còn ở giữa thế gian, như giữa một môi trường thù địch. Họ sẽ được sai vào thế gian để nối tiếp sứ mạng của Ngài. Thấy trước những thử thách và hiểm nguy đối với họ, Chúa Giêsu xin Cha gìn giữ họ, nhất là đừng để họ rơi và sự dữ, và xin Cha thánh hoá họ trong lời sự thật.
Dĩ nhiên những tâm tình và lòng yêu thương đó không chỉ được dành riêng cho lớp tín hữu thời sơ khai mà còn được dành cho chúng ta bây giờ nữa. Chúa Giêsu và các tông đồ đã ra đi hiện vẫn nhìn ngó đến chúng ta và thiết tha mong muốn chúng ta thực thi những lời dặn dò chí tình của các ngài.
Với tư cách những kẻ còn ở lại giữa trần gian, chúng ta được mời gọi gắn bó với Chúa Giêsu đang tiếp tục hiện diện một cách âm thầm trong Hội thánh qua các đại diện của ngài, gắn bó bằng cách sống cho Ngài và tuân phục các đại diện của Hội thánh. Chúng ta cũng được mời gọi ý thức vai trò làm một cột trụ trong cộng đoàn, bất cứ là ai, bất cứ ở cương vị nào đó, nghĩa là đức tin và đời sống ra là nền tảng là sức chống đỡ cần thiết cho anh chị em khác, để chúng ta lo sống xứng đáng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi thay thế Chúa đã vắng mặt để làm hiện thân cho Chúa mà yêu thương, săn sóc anh chị em mình, có thể nói trở nên chính Chúa đối với mỗi anh chị em, để qua chúng ta, mọi người tiếp tục nhận được lòng ân cần và sự tế nhị của Chúa.
Nhưng ta ý thức rõ rệt về sự hèn yếu của mình. Mong muốn của Đấng Phục sinh đối với ta thật cao xa. Ơn gọi và sứ mạng của ta thật trọng đại. Ta cần ơn Thánh Thần mới có thể chu toàn đ. Xin Chúa Phục sinh, sắp đến với ta trong thánh lễ này, ban đầy ơn sức Thánh Thần cho mỗi người chúng ta.
THỨ NĂM
Cv 22,30;23,6-11 – Ga 17, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ước mong thiết tha nhất mà Chúa Giêsu bày tỏ với Cha trước khi Ngài xa rời các kẻ thuộc về Ngài, đó là họ hiệp nhất nên một với nhau. Ngài biết rõ rằng sự hiệp nhất có một giá trị và một hiệu năng truyền giáo đặc biệt. Sở dĩ thế, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, là những thực tại vô hình, người ta không dễ gì tin, bởi vì mắt phàm nhân không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy đời sống hiệp nhất, yêu thương của các kẻ tin, người ngoài cũng sẽ dễ công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và của nước trời. Dấu chỉ hiệp nhất giữa các kẻ tin là đường lối và khí cụ của việc phúc âm hoá. Sự chia rẽ chỉ đưa đến thất bại, như chính trong sách Công vụ hôm nay minh chứng: nhờ việc gieo rắc về quan điểm vào hai nhóm Sođốc và Biệt phái mà thánh Phaolô đã làm họ thất bại trong mưu toan căm thù và kết án ngài.
Gần chúng ta hơn, Đức Phaolô VI diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất này. Người nói “lời di chúc thiêng liêng của Chúa cho chúng ta hiểu rằng hiệp nhất giữa các môn đệ Ngài không những chỉ là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô”. Có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra là mình không phải là con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, có khả năng gặp nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi. Như thế, sự hiệp nhất chứng tỏ ta là môn đệ Chúa, chứng tỏ tư cách của Chúa Giêsu đáng tin, chứng tỏ ta là những con người trưởng thành, và đó là lý do thu hút người ngoại, khiến họ dễ tin lời chứng của ta.
Ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong cỏi lòng cá nhân và trong cộng đoàn ta, để Người tác tạo sự hiệp nhất và tình yêu thương nơi chúng ta nhiều hơn nữa, nhờ đó cộng đồng chúng ta trở nên hình ảnh sống động của nếp sống cõi trời, trở nên môi trường lôi kéo những con người đang muốn tìm tình thương và hạnh phúc cho đời họ.
THỨ SÁU
Cv 25,13-21 – Ga 21,15-19
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".
Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".
Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy" Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".
Tình yêu không phải là hai tiếng suông va trống rỗng, mà là một sự dấn thân bao hàm nhiều đòi hỏi. Nói lên hai chữ “tình yêu” hay tuyên bố mình yêu bao giờ cũng dễ hơn là sống tình yêu. Đó là điều Phêrô và các tông đồ đã sâu sắc cảm nghiệm. Các ông đã đến với Chúa Giêsu bằng tình mến, đã đáp lại tiếng gọi yêu thương của Thầy, đã muốn trung tín trong tình mến đối với Thầy. Phêrô còn thậm chí thay mặt các tông đồ khác tuyên tín thầy là Đức Kitô, tức là xác định Thầy là Đấng thiên sai, Đấng duy nhất đáng mình đi theo suốt đời. Thế nhưng lời tuyên tín không đương nhiên đi đôi với thái độ sống. Đứng trước đòi hỏi của tình mến, đứng trước việc phải bước theo con đường hẹp của Thầy, ông đã lùi bước, không vượt thắng được tính yếu hèn của con người mình. Ông can giám Thầy đi vào con đương khổ nạn. Ông chối bỏ Thầy ba lần. Ông đã không được sống tình yêu như mình mong muốn, đã sa sút so với sự hăng hái và quyết tâm ban đầu.
Đây là sự thất bại thường xảy ra cho chúng ta trong tình mến của ta đối với Thiên Chúa và Chúa Kitô. Theo đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Phục sinh đã muốn Phêrô xác định lại tình mến của ông đối với Ngài. Ngài hỏi ông ba lần, không hẳn là để bù lại ba lần ông đã chối Ngài cho bằng muốn ông xác nhận một cách long trọng theo kiểu xác nhận ở toà án ngày xưa. Có thể nói đây là lần kêu gọi thứ hai đối với Phêrô. Sau thất bại và sa sút lần đầu trong tình mến, Chúa muốn ông bắt đầu một giai đoạn mới, với một tình mến được ý thức hơn và tỉnh táo hơn, quyết tâm hơn.
Đối với chúng ta cũng vậy. Nhiều khi chúng ta để mình sa sút trong tình mến, trong những đoan hứa lúc đầu. Chúa tha thứ cho ta. Chúa vẫn đến lại với ta, mời gọi ta quản đại hơn và cậy dựa vào Ngài nhiều hơn. Trong đời kẻ tin, biết bao lần ta thấy rõ mình yếu hèn, nguội lạnh, hững hờ. Nhưng cũng biết bao lần, ta như nghe tiếng gọi của Chúa bên tai, như thấy bàn tay Chúa đặt trên vai ta để lay tỉnh và mời gọi. Đó là những lần gọi mời Chúa muốn dành cho ta, vì Ngài vẫn thương ta và không thất vọng về ta.
Dĩ nhiên để có thể tránh được những sa sút và bất trung đối với tình yêu ban đầu giữa ta với Chúa, cũng như để có sức bắt đầu lại sau những yếu hèn, ta cần phải có ơn Chúa Thánh Thần. Để có thể giả từ một quá khứ hèn nhát, chối bỏ Thầy và đi vào con đường khổ nạn như Thầy, mang thân con chiên mặc cho kẻ khác muốn dẫn đi đâu thì dẫn như thánh phêrô, hay để chẳng những tuyên tín về một s Giêsu đã chết mà đã sống lại mà còn chịu mọi gian khổ, mang lấy xích xiềng và mất đến cả mạng sống vì Giêsu đó như thánh Phaolô, ta phải cần sự trợ giúp thường xuyên của Thánh Thần. Bởi đó, trong những ngày này và suốt đời ta, ta hãy cầu xin và quí chuộng ơn sức Thánh Thần, nhất là ngày ngày đến kín múc lấy ơn sức ấy nơi bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
THỨ BẢY
Cv 28, 16-20.30-31 – Ga 21, 20-25
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
Thiên Chúa và Chúa Giêsu muốn ban Thần khí là tinh thần, là lòng mến nơi Thiên Chúa để ta được có tinh thần của Thiên Chúa, trở thành con cái Thiên Chúa. Hai đặc điểm của tư cách con cái Thiên Chúa là:
- làm môn đệ Chúa, nghĩa là sống trọn vẹn, đấy tình mến đối với nhau, vừa chỉ rõ Gioan, vừa là lý tưởng mà mỗi kẻ tin phải đạt tới và được mời gọi đạt tới.
- Hai là làm nhân chứng nhiệt thành, thật thà, hiền diệu cho Tin mừng Chúa như Gioan đoan chứng lời làm chứng của mình là chân thật, chỉ nhắm mục đích là trợ giúp anh em tin và được ơn cứu độ, hay như Phaolô hiền dịu khi nói với người Dothái, một dân có nhiều kẻ chống đối tn và làm khổ ngài.
Hai thái độ này thể hiện nơi các tông đồ, nơi mẹ Maria. Ta hãy xin Mẹ, hiện diện giữa các tông đồ trong những ngày chờ đón Chúa Thánh Linh, cầu cùng Chúa Thánh Linh cho ta để ta sống được hai thái độ cốt yếu đó của một kẻ tin.
Hôm nay mùa Phục sinh cũng đi đến kết thúc. Trong lời nguyện đầu lễ, ta xin cho mầu nhiệm vượt qua tồn tại, hiện diện mãi trong cuộc đời ta. Vì sao ta phải cầu xin như thế?
- Vì mầu nhiệm vượt qua là mầu nhiệm trọng đại:
+ Chúa Giêsu đã đem hết sức lực mà thực hiện, đã nghĩ đến mầu nhiệm ấy từ khi Ngài nhập thể đến khi làm trọn, có thể thưa lại với Cha rằng “mọi sự đã hoàn tất. Con phó linh hồn con trong tay Cha”
+ Chính bản thân ta được cứu độ nhờ mầu nhiệm ấy.
+ Rồi mỗi bí tích trong Hội thánh, mọi lễ trong phụng vụ thì căn bản vẫn mừng mầu nhiệm ấy.
- Lý do thứ hai khiến ta phải cầu xin cho mầu nhiệm vượt qua tồn tại mãi, vì ta không được coi mầu nhiệm ấy chỉ là một thực tại khách quan, một chuyện ở bên ngoài đời ta, nhưng phải là mầu nhiệm được đưa vào đời sống ta. Ta luôn phải vượt qua từ tội đến ân sủng, phải chết với Chúa Kitô bằng hy sinh, hãm mình, khổ chế, để sống lại cùng Chúa.
Thánh Gioan viết: “còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra. Thật sự ngày nay số lượng sách báo viết về Chúa Giêsu đã nhiều kinh khủng. Câu của thánh Gioan đã trở thành hiện thực: thế gian gần như không đủ chỗ chứa các sách về Chúa Giêsu. Thế nhưng những không cần có nhiều sách viết về Ngài cho bằng có nhiều con người lấy đời mình mà viết về Ngài. Nếu mỗi người chúng ta và hết mọi người trong nhân loại là những cuốn sách sống động về Chúa, là những cuốn “Tin mừng mới” về Chúa thì đúng là thế gian không còn đủ chỗ chứa. Nhất là khi có Đấng Phục sinh sẽ tràn trề vui mừng, khi thấy ý định yêu thương từ đời đời của Cha được thành đạt mỹ mãn, khi thấy cuộc giáng trần của Ngài không hư luống và khi thấy những thụ tạo lẽ ra hư vong đời đời nay được vĩnh viễn thông dự sự sống phúc lạc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta hãy ra về với cõi lòng mở rộng đón Chúa Thánh Thần, xin Người đến biến chúng ta nên những môn đệ xứng đáng của Đức Kitô, xin Người chiếm trọn cuộc đời tầm thường của ta và dùng nó viết nên những cuốn sách sống động về Con Thiên Chúa.