Giáo lý về "Những tật xấu và các nhân đức" của Đức Thánh cha Phanxicô
Bài 16: Tiết độ
Anh chị em thân mến!
Hôm nay tôi sẽ đề cập đến nhân đức thứ tư và cũng là nhân đức cột trụ cuối cùng. Với ba nhân đức kia, nhân đức này cùng chia sẻ một lịch sử lâu đời và không chỉ thuộc về người Kitô hữu. Đối với người Hy Lạp, việc thực hành các nhân đức hướng đến mục tiêu là được hạnh phúc. Triết gia Aristole đã viết một chuyên luận quan trọng về đạo đức gửi cho con trai của ông là Nicomaco, dạy về nghệ thuật sống. Tại sao tất cả chúng ta đều tìm kiếm hạnh phúc nhưng rất ít người đạt được nó? Đây là câu hỏi. Để trả lời cho câu hỏi này, Aristole đề cập đến chủ đề các đức tính, trong đó enkráteia, tức là tiết độ, có một vị trí quan trọng. Thuật ngữ Hy Lạp có nghĩa đen là "quyền lực đối với chính mình". Tiết độ là một sức mạnh đối với chính mình. Do đó, đức tính này là khả năng tự chủ, là nghệ thuật không để mình bị cuốn vào những cảm xúc nổi loạn, mang lại trật tự cho cái mà Manzoni gọi là "mớ hỗn độn của trái tim con người".
Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo nói với chúng ta rằng “Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong những giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện, giữ được sự cẩn trọng lành mạnh, và không chiều theo sức mạnh của mình mà bước theo các dục vọng của trái tim mình” (GLCG 1809).
Vì vậy, như người Ý nói, tiết độ là đức tính đúng mực. Trong mọi tình huống, đức tính ấy cư xử bằng sự khôn ngoan, bởi vì những người luôn hành động thiếu động lực hoặc bồng bột cuối cùng đều không đáng tin cậy. Những người thiếu tiết độ thì không đáng tin cậy. Trong một thế giới mà có nhiều người tự hào rằng họ nói những gì họ nghĩ, người tiết độ thích nghĩ những gì họ nói. Bạn có hiểu được sự khác biệt ở đây không? Đừng nói những gì tôi nghĩ đến, xin đừng, mà hãy nghĩ về những gì tôi phải nói. Đừng đưa ra những lời hứa suông mà hãy đưa ra những cam kết trong chừng mực ta có thể thực hiện được.
Ngay cả với những thú vui, người tiết độ cũng hành động với sự suy xét. Dòng chảy tự do của những bốc đồng và phóng túng hoàn toàn dành cho thú vui rốt cuộc lại quay lưng chống lại chính chúng ta, đẩy chúng ta rơi vào trạng thái buồn chán. Biết bao người muốn trải nghiệm mọi thứ cách tham lam lại nhận thấy mình mất đi mùi vị với mọi thứ! Tốt hơn hết bạn nên tìm biện pháp phù hợp: chẳng hạn, để đánh giá một loại rượu ngon, uống từng ngụm nhỏ sẽ tốt hơn là nuốt trọn một ngụm. Tất cả chúng ta đều biết điều này.
Người tiết độ biết cân nhắc và định liệu từng lời cẩn thận. Họ suy nghĩ trước khi nói. Người ấy không cho phép mình tức giận làm hỏng các mối quan hệ và tình bạn mà sau đó vất vả lắm mới có thể xây dựng lại được. Đặc biệt là trong cuộc sống gia đình, nơi mà những ngăn cản thường giảm bớt, tất cả chúng ta đều có nguy cơ không kiểm soát được những căng thẳng, khó chịu và tức giận. Có lúc phải nói và có lúc im lặng, nhưng cả hai đều cần phải điều chỉnh đúng mực. Và điều này áp dụng cho nhiều thứ, chẳng hạn như ở bên người khác và ở một mình.
Nếu người tiết độ biết kiểm soát tính hay nóng nảy của mình, điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ luôn nhìn thấy họ với khuôn mặt bình tĩnh và tươi cười. Thực ra, đôi khi cần phải phẫn nộ, nhưng phải luôn đúng cách. Đó là những từ: đúng mức, đúng cách. Một lời trách móc đôi khi còn tốt hơn so với im lặng chua chát và thù oán. Người tiết độ biết rằng không có gì bất tiện hơn việc sửa lỗi người khác, nhưng người ấy cũng biết rằng điều đó là cần thiết: nếu không người đó sẽ buông thả cho cái ác. Trong một số trường hợp nhất định, người tiết độ cố gắng giữ các thái cực cùng nhau: anh ấy khẳng định những nguyên tắc tuyệt đối, khẳng định những giá trị không thể đàm phán, nhưng cũng biết cách hiểu mọi người và thể hiện sự đồng cảm với họ.
Do đó, món quà của người tiết độ là sự cân bằng, một phẩm chất quý giá nhưng cũng hiếm có. Trên thực tế, mọi thứ trong thế giới đều đẩy chúng ta đến thái quá. Thay vào đó, sự tiết độ phù hợp tốt với những thái độ Phúc âm như nhỏ bé, thận trọng, kín đáo, nhu mì. Những người tiết độ đánh giá cao sự quý trọng của người khác, nhưng không coi đó là tiêu chuẩn duy nhất cho mọi hành động và mọi lời nói. Họ nhạy cảm, biết khóc và không xấu hổ về điều đó nhưng họ không cảm thấy có lỗi với bản thân. Bị đánh bại, người ấy lại đứng dậy; Khi chiến thắng, người ấy có thể trở lại cuộc sống kín đáo thường ngày của mình. Người ấy không tìm kiếm những tràng pháo tay, nhưng biết mình cần người khác.
Anh chị em thân mến! Không phải việc tiết độ sẽ khiến cho anh chị em u ám và buồn bã. Thật ra, nó làm cho chúng ta tận hưởng những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống: ngồi bàn ăn cùng nhau, sự dịu dàng của tình bạn, tâm sự với những người khôn ngoan, sự kinh ngạc trước vẻ đẹp của tạo hóa. Hạnh phúc có chừng mực là niềm vui nảy nở trong lòng những người biết nhận ra và trân trọng với những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta món quà này: món quà trưởng thành, trưởng thành về tuổi tác, trưởng thành về tình cảm, trưởng thành về mặt xã hội. Món quà của sự tiết độ.
G. Võ Tá Hoàng
1. Những tật xấu và nhân đức - Bài 1. Dẫn nhập
2. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 2. Cuộc chiến đấu thiêng liêng
3. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 3: Tật háu ăn
4. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 4: Thói dâm dật
5. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 5: Tính tham lam
6. Những tật xấu và các nhận đức. Bài 6: Sự giận dữ
7. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 7: Buồn phiền
8. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 8: Lười biếng
9. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 9: Ghen tị và Kiêu căng
10. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 10: Tính kiêu ngạo
11. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 11: Hành động nhân đức
12. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 12: Sự khôn ngoan
13. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 13: Sự kiên nhẫn
14. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 14: Đức công bình
15. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 15: Lòng dũng cảm
16. Những tật xấu và các nhân đức. Bài 16: Tiết độ