Điều chúng ta tin, phần 15: Những nét đặc trưng của Vatican II



Joshua J. Whitfield

Tại sao Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII lại triệu tập Công đồng Vatican II? Công đồng này bàn về vấn đề gì? Nhờ đánh giá cách tổng thể hiện trạng thần học và đời sống của Giáo hội trong thế kỷ XX, người ta có thể đề xuất một vài lý do. Tuy nhiên, khi cân nhắc một cách kỹ lưỡng, chúng ta cần ghi nhận và xem trọng tuyên bố của Đức Gioan XXIII, rằng Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho việc triệu tập Công đồng. Hoàn toàn có lý và hữu ích việc nhớ rằng: Vatican II là công trình của Thần Khí.

Trước khi đào sâu để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cần thừa nhận, thậm chí là cho đến nay, Vatican II vẫn còn gợi lên đủ mọi cung bậc cảm xúc. Chẳng hạn, một số nghĩ rằng Vatican II là điều tồi tệ nhất từng xảy ra cho Giáo hội. Người ta cho rằng vì những cách tân và sự chệch hướng khủng khiếp khỏi đức tin ngàn đời mà nhiều người đã từ bỏ hoặc ly khai khỏi Giáo hội. Ngược lại, cũng có không ít người tin rằng Vatican II đã làm biến đổi tất cả những gì là kém cỏi và gây khó chịu, mở ngỏ cho những người Công giáo hiện đại chấp nhận những giá trị của tự do thế tục mà họ cho là tốt, thay vì chịu ràng buộc bởi những giáo điều lỗi thời. Ở đây, người ta đang nhắm đến “tinh thần của Vatican II”, nhưng lại không thể chỉ ra nơi nào trong các văn kiện của Vatican II nói rõ những điều mà họ tuyên bố, bởi thực tế là họ chưa đọc các tài liệu này cách kỹ càng.

Hiển nhiên đây là hai kiểu phản ứng cực đoan đối với Vatican II, dẫu chỉ xuất hiện nhiều ở những trào lưu Công giáo không chính thống, nhưng vẫn thực sự tồn tại trong Giáo hội. Tuy nhiên, sự thật là để hiểu được Vatican II, người ta phải chấp nhận nó như một công đồng chung của Giáo hội Công giáo, và giáo huấn của Vatican II được thể hiện cách trung thực trong chính các văn kiện Công đồng. Điều này có nghĩa, “tinh thần của Vatican II” được tìm thấy ngay trong chính các văn kiện của nó, nhờ được đọc và diễn giải trong sự hiệp thông với Giáo hội. Do đó, để hiểu cách chân xác về Vatican II, cũng như đạo Công giáo đương đại, người ta phải rành rẽ các văn kiện của Công đồng, bằng cách đọc chúng kỹ lưỡng. Tất nhiên bạn không cần phải là một thần học gia để làm điều này; bạn chỉ cần biết cách đọc mà thôi.

Vậy rốt cuộc Công đồng này bàn về điều gì? Theo cá nhân tôi, trong tư cánh là một cựu tín đồ Anh giáo, tôi luôn cho rằng, việc Công đồng được triệu tập vào ngày 25/1 – lễ thánh Phaolô Tông đồ trở lại – có một ý nghĩa đặc biệt. Bạn thấy đấy, ngày lễ này khép lại Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo, tuần lễ mà các Kitô hữu trên toàn thế giới cầu nguyện cho hết thảy các kẻ tin vào Đức Kitô được hợp nhất trở lại. Sự kiện này bắt nguồn từ “Tuần Bát nhật Hiệp nhất Kitô giáo” do Cha Paul Wattson và Hiệp hội Phạt tạ khởi xướng ngay sau khi ngài và các thành viên khác của hội trở lại Công giáo từ Giáo hội Giám nhiệm [The Episcopal Church – một nhánh Anh giáo tại Mỹ]. Từ những năm 1920 và 1930, “Tuần Bát nhật Hiệp nhất Kitô giáo” này đã được cử hành rộng khắp thế giới Công giáo; rồi đến khoảng giữa thế kỷ XX, cả các Giáo phái Tin lành cũng tham gia vào nỗ lực cầu nguyện này. Và như thế, việc Đức Gioan XXIII triệu tập Vatican II vào thời điểm ấy đã gợi mở về trọng tâm mà ngài đặt kỳ vọng nơi Công đồng, đó là chữa lành cho mối hiệp nhất của các Kitô hữu. Cũng hãy nhớ về Gioan chương 17.

Nhưng dĩ nhiên, Công đồng còn hướng đến nhiều tiêu đích khác. Để khám phá “tại sao” lại có Vatican II, cần khởi sự bằng việc đọc diễn từ khai mạc Công đồng của Đức Gioan XXIII vào tháng 10 năm 1962. Ngài tuyên bố: “Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ là gìn giữ kho tàng quý báu này, nhưng còn là dấn thân bằng thái độ thành tâm và không e sợ để thực hiện công việc mà kỷ nguyên này đặt ra cho chúng ta”. Ngài hy vọng Giáo hội sẽ đưa ra một cách trình bày đức tin Công giáo vừa tươi mới vừa “tương hợp hoàn toàn với giáo lý chân chính”. Vận dụng “các phương pháp nghiên cứu” đương thời và chấp nhận “các hình thức văn chương của tư tưởng hiện đại”, Đức Thánh cha mong muốn Giáo hội truyền đạt [thông điệp của mình] cách trong sáng dễ hiểu cho thế giới đương đại, là điều ngài xét thấy cần phải suy tính cẩn trọng. Bởi lẽ, “sự bất di bất dịch của giáo lý ngàn đời trong kho tàng đức tin là một chuyện, còn cách thế trình bày chúng lại là chuyện khác”. Đức Gioan XXIII có ý muốn nói, điều cần thay đổi không phải là Đức tin, nhưng là cách trình bày Đức tin. Ngài cho rằng Giáo hội phải chú trọng đến vấn đề chuyển trao Đức tin, tìm kiếm những phương thế biểu đạt Đức tin sao cho vừa thấu tình đạt lý vừa sâu sắc tinh tế, nhưng không sa vào chủ nghĩa duy tín cũng như duy cơ yếu. Đức Gioan XXIII có một niềm xác tín lớn lao đối với tính hữu lý của đức tin. Giáo hội không được trốn tránh thế giới; song phải làm điều ngược lại. Nhiệm vụ của Công đồng là đào sâu kho tàng đức tin và chuyển trao cách đáng tin cậy cho thế giới, và thay vì không dám đối diện với các vấn đề thuộc lý trí hoặc cố tỏ vẻ cam đảm, ngài cho rằng cần theo hướng “mục vụ là chính yếu”. Nghĩa là, Vatican II không đặt ưu tiên vào chuyện diễn giải thần học hay giáo thuyết – như Công đồng Nicêa, khi các nghị phụ trình bày về thần tính của Đức Kitô (homoousios) – nhưng vào việc trình bày Đức tin theo hướng mục vụ.

Điểm nổi bật và khác biệt so với các công đồng chung trước đây, minh chứng cho lối tiếp cận theo hướng mục vụ đầy mới mẻ này, đó là việc Vatican II đã vận dụng một thứ ngôn ngữ hoàn toàn mới. Chẳng hạn, Công đồng không ban hành bất kỳ một điều khoản nào liên quan đến kỷ luật, cho dẫu đã khởi xướng việc tu chính Bộ Giáo luật, hoàn tất vào năm 1983. Vatican II cũng không đưa ra bất kỳ một vạ tuyệt thông nào như Công đồng Trentô đã làm. Các văn kiện của Vatican II mang một sắc thái hoàn toàn khác biệt. Chúng có khả năng thuyết phục, đầy gợi hứng và nhất là mang tính đối thoại. Nghĩa là các bản văn giống như một cuộc chuyện trò. Điển hình như Gaudium et spes - Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay - giống như một lời mời gọi thế giới cùng bàn luận về việc tìm kiếm chân lý, vun đắp điều thiện và xây dựng hòa bình. Đây hoàn toàn là một văn kiện cởi mở và chất chứa hy vọng, thay vì mang tính phòng thủ hoặc bài xích.

“Điều đã diễn ra tại Vatican II”, một cuốn sách nói về Công đồng rất đáng quan tâm của tác giả John O’Malley, lưu ý đến những nét đặc trưng dễ thấy của Vatican II, được tóm kết qua ba khái niệm – aggiornamento, sự phát triển giáo thuyết và ressourcement. Ý tưởng đầu tiên, được nghĩ đến nhiều nhất khi nói về Vatican II, là aggiornamento, có thể hiểu là “cập nhật hóa” hoặc “làm mới”. Điều này tương tự với những gì Đức Gioan XXIII nhắm tới khi ngài cho biết về ý muốn “mở toang những cánh cửa sổ của Giáo hội và để làn gió tươi mới thổi vào”. Đây là điều ngài đã đề cập trong diễn từ khai mạc – không hề thay đổi nhưng làm mới mẻ, cập nhật hóa Đức tin.

Sự phát triển giáo thuyết là một đặc trưng khác của Vatican II, một ý tưởng gắn liền với công trình của thánh John Henry Newman, ngài, nói một cách nào đó, là một nghị phụ về tư tưởng của Vatican II. Ngài không hiện diện tại Công đồng vì đã qua đời 70 năm trước đó. Là một trong những người trở lại Công giáo nổi tiếng nhất thời đại – từ Giáo hội Anh giáo, ngài là một thần học gia uyên bác, một học giả cừ khôi. Cuốn “Khảo luận về sự phát triển giáo thuyết Kitô giáo”, một tác phẩm mà ngài viết ra khi còn trong quá trình trở lại Công giáo, đã đưa ra một nhận định dẫu đơn giản nhưng sâu sắc về đức tin Kitô giáo. Đó là, dù kho tàng đức tin, tức những chân lý được mặc khải từ Kinh Thánh và Chúa Thánh Thần, là bất biến, nhưng cách thức diễn đạt đức tin lại phát triển theo thời gian. Đối với nhiều người, đây là một ý tưởng đã và đang gây tranh cãi. Dĩ nhiên là những người theo chủ nghĩa duy cơ yếu không thích điều này. Nhiều thần học gia Chính thống Đông phương cũng chẳng mấy quan tâm. Nhưng về cơ bản, Newman muốn chỉ ra: giáo thuyết Kitô giáo được mài giũa, diễn giải thấu đáo, và trình bày sáng rõ hơn khi gặp phải những đòi buộc qua dòng thời gian. Lấy tín điều Ba Ngôi là ví dụ. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Tuy nhiên, tín điều này chưa được diễn tả cách trọn vẹn cho đến năm 381. Tại sao? Vì như Newman chỉ ra, trước đó chưa từng có một lý do nào thúc ép việc diễn giải đầy đủ cho đến khi có tranh cãi về vấn đề này nổ ra. Giáo hội đã tuyên bố dứt khoát về thần tính trọn vẹn của Đức Kitô, chỉ khi Ariô châm ngòi rắc rối bởi đặt ra nghi vấn về điều đó. Sau Nicêa, người ta lại đặt vấn đề về thần tính của Chúa Thánh Thần - họ được gọi là phái pneumatomachi, nghĩa là “những người chống Thánh Thần” - điều này thúc đẩy Giáo hội diễn đạt rõ ràng hơn niềm tin của mình vào Ngài. Như thế, cùng với sự tiến triển của lịch sử, giáo thuyết ngày càng được trình bày sáng tỏ hơn. Đó là dụng ý của Newman khi dùng từ “phát triển”, và cũng là ý tưởng nền tảng đối với Vatican II.

Khái niệm sau cùng gắn liền với công đồng là ressourcement, xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XX, chủ yếu trong giới thần học Pháp, những người đã khởi sự việc làm thần thọc theo một cách thế mới. Cách thế mới này – nổi bật nơi các tu sĩ dòng Tên như Henri de Lubac và Gaston Fessard, cũng như nơi các tu dĩ dòng Đaminh như Marie-Dominique Chenu và Yves Congar – được gọi là nouvelle théologie [Tân Thần học]. Thực ra, cách làm thần học này không phải đến bấy giờ mới có; nó chỉ khác biệt vào thời điểm ấy. “Những người lính của Thiên Chúa giữa một thế giới thế tục”, một cuốn sách của Sarah Shortall, kể lại câu chuyện về phong trào thần học quan trọng này. Chủ nghĩa Tân-Kinh viện thống trị nền thần học vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đó là một thứ thần học xây dựng theo dạng mệnh đề, có thể nói như vậy. Người ta định nghĩa các thuật ngữ và sắp xếp các mệnh mệnh đề theo trật tự luận lý. Tuy nhiên, các thần học gia của Tân Thần học lại kiên định với ressourcement, thuật ngữ đơn giản có nghĩa là “trở về nguồn”. Để hiểu được kho tàng đức tin và trình bày chúng dưới dạng thần học, những thần học gia này trở về lại với Kinh thánh, với các Giáo phụ thời kỳ đầu của Giáo hội. Cơ bản mà nói, phương pháp của họ như sau: Nếu bạn muốn biết điều gì đó về Thánh thể - chẳng hạn như sự biến đổi bản thể - bạn phải tìm hiểu như thế nào? Vậy thì bạn hãy bắt đầu từ các nguồn, từ Thánh thể theo như Kinh thánh đã đề cập. Tiếp đó, hãy khám phá điều mà các thần học gia thời kỳ đầu đã tin và đã dạy; rồi hãy nghiên cứu những tranh luận về Thánh thể ở thế kỷ X, và cứ thế tiếp tục. Bằng phương pháp này, tức khám phá các nguồn của đức tin Kitô giáo, một người có thể hiểu được tận tường hơn ý nghĩa mà Giáo hội muốn nhắm tới khi sử dụng hạn từ “biến đổi bản thể”. Cách này rõ là hợp lý hơn so với việc đơn thuần đặt ra một hạn từ rồi định nghĩa nó theo thể thức trừu tượng phi lịch sử - kiểu như đặt mệnh đề “biến đổi bản thể là X”. Bạn thấy sự khác biệt rồi chứ? Ressourcement là quay trở lại với các nguồn, là điều mang lại sự giúp đỡ hữu hiệu hơn cho chúng ta trong việc hiểu cách mà các tư tưởng được định hình bên trong lịch sử. Đây là cách làm thần học mới vào nửa đầu thế kỷ 20, và cũng là cách làm không những định hình nên Vatican II mà còn cả thế giới Công giáo đương đại.

Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ

Mới hơn Cũ hơn